Hiển thị các bài đăng có nhãn Tay Trắng Làm Nên.. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tay Trắng Làm Nên.. Hiển thị tất cả bài đăng

04: Tay Trắng Làm Nên

Chương 7
COI CHỪNG CÁI THÓI PHÂN LOẠI
Trong việc kinh doanh, có hai thứ lầm lẫn: lầm lẫn vì thiếu  kinh nghiệm và lầm lẫn vì dùng kinh nghiệm một cách vô lí.
Đừng nghĩ tới việc sửa đổi được một con người vô trách  nhiệm, việc đó vô ích, vì kẻ vô trách nhiệm không thèm nghe  những lời khuyên của người đó kinh nghiệm và khôn ngoan. Một  kẻ đã bỏ lỡ tất cả các cơ hội thì có gặp cơ hội khác cũng lại bỏ lỡ  nữa mà thôi. Một kẻ bẩm sinh ra không biết lí luận thì dù có đọc  những sách về lí luận cũng vô ích. Khuyên bảo những hạng người  đó chỉ là phí công.
Nhưng ta có thể tha thứ những lỗi lầm của tuổi trẻ được, vì  những lỗi lầm đó dễ sửa. Thanh niên nào cũng có thể nhờ một  kinh nghiệm chua chát mà học khôn được, hoặc có thể nhờ lời  khuyên của kẻ đi trước đã mở đường cho mình mà tìm được một  con đường tắt mới thành công.
Trong ngành kinh doanh, may lắm thì ngàn người có được  một người bẩm sinh ra có thiên tài. Mà kẻ có thiên tài lại có thể dễ  thất bại hơn người khác vì ham mạo hiểm và tự đắc, không có kinh  nghiệm mà lại chẳng chịu nghe lời người khác.
Còn đương tuổi thanh xuân, tôi khuyên bạn nên chịu nghe  một lời khuyên bảo sáng suốt còn hơn là chịu thất bại, làm nguy  hại tài chính và mất lòng tự tin của bạn. Mất lòng tự tin tức là  mất linh hồn của thành công.
Vậy những thanh niên có khả năng nhưng thiếu kinh  nghiệm, những thanh niên tin ở số vận của mình nhưng chưa được  rèn luyện, cần phải tránh những lỗi lầm nào đây?
Lỗi lầm thứ nhất là tin ở phép màu.
Những người tin ở phép màu không bao giờ để ý tới những  cái lặt vặt, nó là dấu hiệu của sự thành công lớn sau này. Là vì  đầu óc họ bị ảo vọng, nó như một ảo ảnh trong sa mạc, làm cho họ mê hoặc rồi họ lạc quan tới nỗi tin tưởng rằng chỉ một sớm một  chiều là sẽ thành tỉ phú. Họ là nạn nhân của óc tưởng tượng của  họ. Họ coi những người cạnh tranh với họ là hạng tầm thường, nhỏ  nhoi, chẳng đáng kể; họ tự cho rằng chỉ có họ mới có chiếc chìa  khóa vàng và chỉ cần vặn chìa khóa đó là làm chủ được vô số tài  sản.
Ôi! Đâu có dễ dàng như vậy! Sự thật khác hẳn. Sự thậc là óc  tưởng tượng của họ chẳng làm chủ được gì trong xã hội cả; họ mắc  một căn bệnh nặng, bênh tin ở phép màu. Họ tưởng biết được câu  thần chú để mở những cánh cửa thành công.
Không có người nào không tập sự lâu mà có thể trong một  ngày nắm được bí quyết điều khiển công việc.
Bạn nên nghi ngờ những con người tự cho mình là thiên tài,  chỉ có mình mới có óc tưởng tượng sáng tạo. Chắc chắn là họ lầm.
Lỗi lầm thứ hai là tin ở tài giao thiệp của mình.  Lỗi lầm này rất tai hại. Nó thường mang hình thức dưới đây:  người ta xoay xở, vận động để yết kiến các nhà đại doanh nghiệp,  rồi bàn bạc một cách rời rạc về công việc làm ăn, bàn bạc chỉ để  mong gây được thiện cảm thôi, chứ chẳng có mục đích gì rõ rệt cả.
Các nhà doanh nghiệp đó rất bận việc, đâu có để ý gì tới  những chuyện tầm phào như vậy và có lẽ chưa đầy một tháng sau  đã quên mất mặt mũi con người lại thăm mình rồi. Nhưng chàng  thanh niên muốn “quảng giao” đó lại không hiểu như vậy.
Hắn cứ tin rằng hắn đã gây được cảm tình, khéo xã giao  trong công việc làm ăn. Thái độ đó chẳng khôn ngoan chút nào mà  cũng chẳng ích lợi gì (Tôi có thể nói thêm rằng: những người chịu  tiếp hạng thanh niên đó cũng có lỗi như họ vì cả hai đều mất thì  giờ vô ích).
Hai lầm lỗi đó do một chứng bệnh mà tôi có thể gọi là bệnh  nghệ thuật khuếch trương quá độ đến nỗi lấn công việc kinh  doanh. Hạng người đó cũng vô lí như một họa sĩ có những ý tưởng  rất đẹp nhưng không đủ khả năng thể hiện nó lên tấm vải.
Lầm lỗi thứ ba là từ việc này nhảy qua việc khác, từ cực đoan  này nhảy qua cực đoan khác.
Người ta thường thấy tật đó ở hạng thanh niên mắc cái tật  phân loại có phương pháp, óc lúc nào cũng như chia thành nhiều ngăn nhỏ. Y như những bộ xương không thịt không máu. Những  cái ngăn đó đầu độc đời sống nhà kinh doanh.
Có một lần người ta khuyên tôi dùng một thứ ngăn kiểu mới  nhất trong phòng giấy của tôi ở Canađa. Sự sắp đặt thật tài tình,  mọi việc được như ý cho tới ngày tôi bỗng nhận thấy rằng từ khi  dùng kiểu ngăn phân loại tài liệu đó thì năng suất làm việc lại  giảm đi. Thì ra không có gì khó hiểu cả. Các nhân viên của tôi chỉ  loáy hoáy lo phân loại, sắp xếp mà hết ngày, không còn thì giờ làm  công việc khác nữa. Tôi liền bãi bỏ lối sắp xếp đó đi. Biết bao nhiêu  xí nghệp có tương lai mà suy sụp chỉ vì người điều khiển của sắp  xếp quá ngăn nắp, chỉ thích dùng thẻ và dùng ngăn đó.
Người nào viết thư kĩ lưỡng quá cũng có tính tình giống hạng  người tin ở hệ thống, ở nguyên tắc mà không có óc thực tế. Cái thói  thích viết thư làm cho họ mất mỗi ngày hai ba giờ để viết cho thật  hay, trình bày cho thật đẹp, tốn biết bao công phu, trong khi chỉ  cần dùng một mẫu thư nào có sẵn mà điền mấy chữ vào là đủ.
Đành rằng phải thảo những bức thư quan trọng, nhưng  người biết làm ăn, không khi nào dài dòng vô ích, mà viết rất gọn.  Ngay những vấn đề quan trọng nhất cũng không cần phải viết  mấy trang đặc để giảng giải. Thư càng ngắn thì lại càng rõ ràng.
Hạng lẩm cẩm thì không vậy. Buổi sáng tới hãng họ đọc thư  cho thư ký tốc ký đánh máy, buổi chiều họ chịu khó sửa lại những  bức đó, thấy vẫn còn có lỗi, lại bút lại, dùng viết chì xanh đánh  dấu, ghi nhận xét, thế là mất toi hai giờ nữa, mà đa số các bức thư  vẫn chưa gửi đi được. Người ta tưởng đâu như trong hãng của họ,  không có công việc gì cả, rảnh rang lắm.
Một thanh niên vào hạng đó, lo tiếp xúc với ông này ông nọ,  thảo rồi sửa thư từ cho không còn chê vào đâu được, đúng với  nguyên tắc văn thư, làm cho nhân viên bù đầu với cái máy chữ và  cái ngăn để tài liệu, xong bấy nhiêu công việc rồi thì còn thì giờ  đâu nữa để tính toán công việc kinh doanh.
Bạn có thể bẻ tôi: “Ba tật đó khác xa nhau, không có lẽ nào  mà một người lại mắc đủ cả ba được”. Phải, óc tưởng tượng làm sai  sự thực, tính quá ngăn nắp thích các hệ thống phân loại, với tính  lẩm cẩm tốn công viết thư cho thật kỹ, thật đẹp, những thói đó có  vẻ khác nhau xa. Vậy mà, lạ lùng thay, tôi vẫn thường thấy những  kẻ có đủ cả ba tật đó.
Những kẻ đó đầu óc không minh mẫn, lộn xộn, quá cương  quyết mà lại quá bận việc,không sao đạt mục đích được. óc tưởng  tượng của họ nhảy qua giới tuyến của sự thực, và cơ hồ như họ tự ý  thức được điều đó, nên mới phải dùng một cách phân loại, sắp đặt  tỉ mỉ, phải đặc biệt chú ý tới tiểu tiết, để ngăn óc tưởng tượng lại,  không cho nó nhảy bậy bạ mà nguy hiểm. Và rốt cuộc là họ kiệt  lực về những việc đó.
Họ là một chiếc tàu không có bánh lái: cứ tiến tới mà không  biết tiến về đâu. óc tưởng tượng của họ không biết giới hạn của cái  vô lí; sức của họ hao mòn vào những tiểu tiết kì cục.


Chương 8
ĐỪNG TIN Ở VẬN MAY
Còn một tinh thần thái độ nữa mà tôi khuyên các thanh niên  muốn làm nên trong đời phải để phòng. Thái độ đó có thể tóm tắt  trong mấy tiếng này: “Tin ở vận may”
Không có tư tưởng nào tai hại cho người muốn thành công  bằng tư tưởng ấy; không lời nào điên khùng hơn mấy tiếng đó.
Điên khùng vì trong một vũ trụ bị luật nhân quả chi phối,  thì không thể tồn tại một điều nguy hiểm như là vận may được.
Bánh của bà H. ngon không phải là nhờ may, mà nhờ bà  khéo léo.
Người ta bảo ông nọ luôn luôn “gặp may” sự thực chỉ là ông  ấy có khả năng và chịu khó làm việc.
Khi chúng ta bảo “cứ tin ở vận may”, tức là chúng ta chỉ  muốn nói: “cứ tin ở cái việc sẽ xảy ra mà chúng ta không nắm chắc  được”. Nhưng hễ còn có cách kiểm soát được cái sẽ xảy ra mà  chúng ta không nắm chắc được đó, thì phải là điên khùng mới  không kiểm soát nó.
Tôi càng lớn tuổi càng khó tin rằng có vận may. Xưa kia, có  lần tôi viết: “Thực là có số tốt mà được sinh ra vào một gia đình  giàu có, được hưởng một gia tài là năm trăm ngàn Mỹ kim, chứ  không phải sinh trong một túp lều”. Ngày nay, tôi cho lời đó cũng  không đúng nữa. Sinh trong một nhà giàu có thể hư hỏng mà suy  bại; sinh trong một nhà nghèo có thể dễ có tinh thần chiến đấu và  tinh thần đó kích thích khả năng của ta.
Một người bỏ ra nhiều năm để gây dựng một sự nghiệp rồi  bỗng dưng một tai ách làm cho tiêu tan hết, ta cho ngay rằng  người đó gặp vận rủi. Nhưng biết đâu chẳng phải tại anh ta đã  không để ý tới những yếu tố gây ra tai ách. Lại có thể rằng biến cố  đó bề ngoài là một tai ách, mà sự thực là một điều rất hay, bắt  người đó phải vận động lên, chịu suy nghĩ, rèn luyện tư cách.
Vì vậy tôi không muốn dựng một lí thuyết về vận may, mà  chỉ khuyên bạn: đừng nên tin ở nó.
Tin có may rủi, rằng người này có số tốt, người kia có số xấu,  người này sinh ra có số vĩ nhân, người khác sinh ra có số nghèo  nàn, tin như vậy là một thái độ vô lí.
Cái mà ta gọi là “may” nhiều khi có thể là do gắng sức và  làm việc hợp lí; cái mà ta gọi là “rủi” nhiều khi chỉ là do thiếu hai  đức đó.
Những con bạc thường tin rằng gặp vận may thì phúc nối  tiếp nhau tới, gặp vận rủi thì hoạ nối tiếp nhau xảy ra. Sống với  một niềm tin như vậy thì có khác gì suốt đời bị một ác mộng  không. Tôi cho rằng sống như vậy tất phải hoá điên mất. Người ta  sẽ phải đi xem quẻ, coi thầy bà và tìm mọi cách cầu nguyện để gặp  được vận may.
Nhưng làm sao có thể cầu nguyện mà vận may tới với mình  được. Muốn nó tới rồi giữ được nó thì chỉ có cách làm việc cho gắt  vào.
Có một luật nghiêm khác trong các trò đánh bài là: chơi lâu  thì thế nào một người cao nước cũng thắng một kẻ thấp nước.  Trong canh bạc lớn của đời người thì cũng vậy. Người thành công  là người có nhiều đức quý mà đáng được thành công. Kẻ thất bại là  kẻ đáng bị thất bại, đáng thất bại nhất là vì kẻ đó không tin ở  mình mà cứ tin ở vận may.
Sở dĩ vậy là vì có một con bạc ở trong bản thân chúng ta. Cho  nên chúng ta chỉ có thể thực sự thành công được khi nào đã diệt  được con quỷ đó ở trong lòng chúng ta rồi. Trong nghề kinh doanh,  kẻ nào định chơi một canh bạc thì chưa hạ quân bài thứ nhất cũng  đã thua rồi.
Chúng ta thử xem một thanh niên bắt đầu làm ăn với quy  tắc này: người ta sẽ bưng một cái khay bằng bạc trên đó đặt một  chìa khóa thần, chiếc khóa thành công mà dâng mình. Đáng buồn  thay cho kẻ đó. Hắn sẽ ương ngạnh từ chối tất cả những sự mời  mọc rất quyến rũ, có lợi cho hắn, hoặc bỏ qua tất cả những cơ hội  nhỏ, cho rằng không đáng làm. Hắn hi vọng rằng vận may như con  gà quay từ trên trời rớt xuống và hắn sẽ hưởng được một địa vị  xứng đáng với tài năng của hắn. Riết rồi, người ta đâm ngán  không muốn chìa chiếc sào cho hắn nắm mà lội vô bờ nữa.
Cứ lo ve vãn, đeo đuổi vận may mà hắn bỏ lỡ tất cả những cơ  hội tốt.
Tới khi đứng tuổi, những kẻ đó mắc một cái tật rất thường  thấy trong đời. Họ làm điếc tai những bạn đồng nghiệp thành  công, siêng năng hơn họ,vì bắt những người này phải nghe họ kể lể  tấn kịch mà họ phóng đại ra về sự thất bại của họ; họ phàn nàn  rằng suốt đời gặp toàn những xui xẻo, chứ đáng lí tài ba như họ đã  nhảy lên những địa vị cao sang từ lâu rồi. Họ mắc cái mặc cảm có  tài mà thiên hạ không biết tới.
Người thực muốn thành công có thái độ khác hẳn.  Không nghĩ gì tới vận may, vận rủi cả. Cơ hội nào tới, dù nhỏ  tới mấy đi nữa, cũng nắm lấy liền, miễn là đưa mình đi xa hơn  được một chút. Không đợi cho ông thần May tới gõ cửa đón mình  đi. Tự tạo lấy vận may bằng sự làm việc. Đôi khi người đó có thể  lầm lẫn vì thiếu kinh nghiệm hoặc óc phán đoán, nhưng mỗi lần  thất bại là một bài học để lần sau tiến bộ hơn chút nữa, và tới khi  đứng tuổi người đó thế nào cũng thành công.
Người đó không hề đút tay trong túi quần để đợi lúc có thể  rên rỉ với mọi người rằng thời vận không tới, chỉ gặp toàn những  chuyện rủi.
Cần phải xét một lí lẽ tế nhị hơn mà người ta thường viện ra  để bênh vực cái thuyết có vận may, người ta bảo có vài người trời  phú cho giác quan thứ sáu, do bản năng mà biết được xí nghiêp  nào thành công, xí nghiệp nào thất bại, thị trường sắp mở rộng  thêm hoặc sắp thu hẹp lại vì khủng hoảng. Người ta cho rằng hạng  người đó tiến trên đường thành công nhờ những cuộc mà tôi có thể  gọi là cuộc “đấu giá tinh thần” đó.
Tôi khuyên bạn đừng tin cái thuyết huyền bí rẻ tiền ấy.  Sự thực khác hẳn.
Hạng người tài năng trong các ngành kinh doanh lớn, tài  chính hay chính trị, thường cho ta cảm tưởng rằng họ hành động  do trực giác. Nhưng sự thực là nhờ luôn luôn chú ý tới mọi biến cố  mà họ biết rõ được xã hội, biết rõ tới mức mỗi hành động của họ có  vẻ như một phản ứng tự nhiên, y hệt trái tim ta đập do một kích  thích thần kinh mà ta cứ tưởng là tự nhiên như vậy.
Nếu bạn hỏi tại sao họ hành động cách đó thì họ cũng chẳng  hiểu tại sao nữa, chỉ đáp: “Tôi nảy ra cái ý như vậy, thế thôi”; nhưng sở dĩ họ nẩy ra cái ý như vậy là kinh nghiệm đã chứa chất  rất nhiều trong tiềm thức của họ mà họ không hay.
Khi thấy họ dự tính và toan liệu đúng, mọi người la lên:  “Ông ta gặp may làm sao!” Nhưng giá la lên như thế này thì đúng  hơn: “óc nhận xét, suy tính của ông ta đúng làm sao! Kinh nghiệm  của ông ta phong phú làm sao!”
Kẻ đầu cơ “gặp may” khác hẳn hạng người kể trên. Họ thành  công một lần, rực rỡ nhiều hay ít, rồi biến mất trong một tai ách  nào đó. Làm giàu mau mà phá sản cũng mau.
Muốn thực thành công, thành công hoài hoài thì không cần  gì khác ngoài ba điều kiện này: tài năng, lí trí và sức khoẻ. Ngoài  ra, toàn là chuyện dị đoan cả.
Thanh niên thì ai cũng có hi vọng, nhưng nếu hi vọng biến  thành lòng tin ở vận may thì nguy hại mà tiêu ma cả chí khí.
Không có một thần phật nào phù hộ một em nhỏ để sau này  nó thành công cả. Chỉ có cách nhận thức đúng sự vật và hăng hái  làm việc mới thành công được thôi.
Không có gì thay được sự làm việc. Kẻ nào sợ làm việc thì  không sao thành công được, may lắm là đủ sống.

05: Tay Trắng Làm Nên

Ít người tập được thói quen dành dụm. Người nào ngay từ hồi  trẻ đã biết dành dụm là biết sửa soạn cho con đường thành công  của mình sau này đấy.
Sự tiết kiệm rèn tư cách của ta. Nó làm cho quyết định của  ta mạnh lên, nó nâng đỡ cái chí quyết thắng của ta trên đường đời.
Tuy nhiên ở thời buổi này, chỉ có tính tiết kiệm thôi thì chưa  đủ để làm giàu được.
Những người đã lựa ngành kinh doanh mà muốn làm giàu  tất phải biết rằng theo cách thức đánh thuế hiện nay(1), nếu chỉ  nhịn tiêu pha thôi thì không thịnh vượng được. Cũng may còn  những cách khác để cải thiện “lối sống” và tình thế của ta.
Muốn cho một số vốn nhỏ lớn dần lên thì phải lựa những  hoạt động có thể phát triển được.
Thanh niên nào muốn làm ăn, có thể lựa những hoạt động đó  trong kĩ nghệ, trong ngành bán buôn và bán lẻ. Nhưng muốn  thành công trong những ngành đó thì phải để dành một phần lớn  số lời của mình. Phải có tài gây vốn và phát triển tài chính. Vì vậy,  nền tảng là sự tiết kiệm.
Theo tôi nhận xét, năm người không có được một người biết  tiết kiệm. Mà trong số những người biết tiết kiệm đó, nhiều kẻ chỉ  nhắm mục đích tích cốc phòng cơ, thành thử rốt cuộc chỉ còn một  số rất ít là biết tiết kiệm để gây vốn, để đầu tư. Rất nhiều người lo  sợ những lúc đau ốm, mất việc, gặp tai nạn, hoặc chết yểu. Họ  dành dụm một số tiền, khi thấy đủ để bảo đảm sự an toàn rồi thì  thôi, không chịu gắng sức nữa.
Rất hiếm người biết tiết kiệm với mục đích gây vốn làm ăn,  sớm tập được nhiều thói tốt tùy chủ đích của họ.
Họ biết coi thời giờ là tiền bạc. Một mặt họ tiết kiệm tiền bạc,  một mặt họ được lợi thời giờ. Họ làm luôn tay chứ không chịu ngồi không.Hễ có công việc làm là họ làm hoài làm huỷ, hết việc rồi mới  chịu nghỉ.
Y như một sinh viên chăm chỉ, học bài cho tới thuộc lòng mới  thôi. Y như một nhà nông siêng năng, tham công tiếc việc, mờ mờ  sáng ra đồng gặt, tới xẩm tối mới chịu về. Khi công việc làm ăn  phát đạt, họ hăng say làm việc, mà khi công việc phát đạt thì họ  làm việc còn gắt hơn nữa.
Hạng người đó rất ít, trái lại hạng người dưới đây mới nhiều.  Hạng này tuyên bố rằng xã hội phải nuôi họ. Lạ chưa! Xã hội  có thiếu nợ họ gì đâu. Trái lại chứ, chính họ mang nợ xã hội vì xã  hội nuôi họ chứ. Khi công việc phát đạt thì họ làm việc bốn giờ một  ngày thôi vì cần phải làm mới có ăn; mà khi công việc không phát  đạt thì họ cũng chỉ làm bốn giờ một ngày thôi vì không ai có cách  nào bắt họ làm trên số giờ đó được. Họ sống thanh thản nhàn nhã  như vậy.
Phần lớn số thuế thu trong nước là nhờ số tiết kiệm đem đầu  tư, nghĩa là nhờ số lời của kĩ nghệ. Có công nhất với sự phú cường  của quốc gia là hạng người biết tiết kiệm rồi đầu tư số vốn của  mình. Tự nhiên là hạng người đó phải đóng nhiều thuế để cho bộ  máy chính quyền chạy được vì họ giàu có.
Không nên phàn nàn cho họ vì họ phải trả nhiều thuế. Mà họ  cũng không muốn ai phàn nàn cho họ. Chính vì phải đóng thuế  nặng mà khả năng của họ tăng lên để làm ăn cho có hiệu năng  hơn. Những người như vậy bình thản, không ngại một chính sách  thuế má nào của một chính thể nào cả, họ chỉ bất bình với một  chính sách không cho họ cái quyền làm việc thôi.



Chương 10
BIẾT CÁCH BÁN
Trong ngành thương mại, đức cần nhất là phải biết bán.  Thanh niên nào muốn thành công thì phải gắng luyện đức đó, nếu  không thì kẻ khác sẽ thắng mà giật giải mất.
Người bán giỏi không phải là người bán được nhiều lãi nhất.  Thanh niên nào mới tập sự bán hàng thì nếu gặp cơ hội, họ không  ngại gì tăng giá cho thật cao để thu một số lãi quá đáng. Chính  sách thiển cận đó rất tai hại cho sự thành công lâu dài.
Hồi xưa vài triết gia cho sự buôn bán là một hành động “bóc  lột” theo cái nghĩa xấu xa nhất của tiếng này. Lí lẽ họ đưa ra thật  là giản dị. Họ bảo: nhà buôn mua một vật theo đúng giá của nó,  mà bán với giá cao hơn thì tội gian trá càng nặng; và kẻ nào càng  gian trá, nói thách, nói dối thì càng mau thành công trong nghề  con buôn!
Hồi xưa người ta phán đoán lầm lẫn như vậy là vì không biết  những luật kinh tế. Giá thực của một món hàng là giá vốn của nó  cộng với phí tổn để đem nó tới thị trường. Nói cách khác là số lãi  khi bán chỉ là để bù cái công người bán tìm kiếm và cung cấp món  hàng cho ta.
Do kinh nghiệm chúng ta thấy rằng bán hàng mà cần một số  lãi quá đáng thì không phải là một chính sách hay, rốt cuộc không  có lời. Chính sách đó không phải là chính sách buôn bán lớn.
Bán rẻ lãi ít, mà bán được nhiều vẫn là khôn hơn.  Dù buôn một ít món xa xỉ, đắt tiền hoặc buôn nhiều món rẻ  tiền thì cũng vậy, cần sao là bán cho được. Muốn vậy cần biết nghệ  thuật bán. Nghệ thuật đó không phải là thuật gian trá, lừa gạt  khách hàng như các triết gia tưởng lầm, mà là khả năng thuyết  phục.
Tài bán hàng cần những đức gì? Cần một sự phối hợp lí  tưởng của hai đức có vẻ như trái ngược nhau này: sức mạnh của cá  tính và khả năng tưởng tượng giúp ta hiểu tâm lí người khác.
Có hai cái cực đoan đưa tới thất bại; chỉ có sự dung hòa là  đưa tới thành công.
Cực đoan thứ nhất có thể gọi là “cực đoan về cá tính”. Cá  tính là cái gì tế nhị, không định nghĩa được, nó làm cho ta gây  được ấn tượng ở người khác, khiến người khác chú ý tới ta. Cá tính  cần thiết cho nghệ thuật bán hàng; nhưng nếu nó phát triển mạnh  quá thì có thể thành một tật xấu. Người bán hàng mà có tật đó,  khi đã có một ý kiến về một sự vật nào rồi thì muốn người khác  phải theo quan niệm của mình, chỉ lo đưa lí lẽ của mình ra mà  không tìm hiểu quan điểm của người mua. Thiếu sự thông cảm  giữa người mua người bán thì không bán được món hàng.
Cực đoan thứ nhì là tính thụ động của người bán. Người bán  khá mềm mỏng, uyển chuyển để theo dõi được những biến chuyển  trong tâm hồn người mua, nhưng bị thụ động, mất sự tự do hoạt  động. Khi bênh vực món hàng thì tỏ ra khúm núm. Thái độ đó rất  tai hại. Và khi người mua muốn lảng thì người bán không biết  khéo léo đánh đổ sự do dự của khách hàng, quên mất cái nhiệm vụ  chào mời thuyết phục của mình đi.
Người ta đã bảo rằng người mua là chúa mà người bán là tôi;  lời đó rất đúng, nhưng chúng ta nên nhớ rằng một bề tôi chính  trực không khi nào có tinh thần ti tiện.
Đó là những cái nguy hại của những thái độ cực đoan. Người  bán hàng thành công hòa hợp được tài thuyết phục, cá tính của  mình và nghệ thuật giao thiệp, tiếp xúc với khách hàng, y như  người đi trên dây, khi nghiêng bên này, khi ngả bên kia để giữ  được thăng bằng. Có lúc phải tỏ sức mạnh của mình, có lúc lại  phải khéo léo, tế nhị. Phải cho cá tính của mình biểu hiện ra đủ để  gây một ấn tượng cần thiết trong lòng khách hàng, rồi thì thôi,  đừng đi quá. Phải nhận biết được cá tính của người mua để có thể  sẵn sàng hành động.
Cũng như trong chiến tranh, thắng hay bại là do mười lăm  phút cuối cùng. Nghệ thuật bán là làm cho khách hàng nẩy ý  muốn mua. Mọi cử chỉ ngôn ngữ, hành động phải đưa tới kết cục  đó.
Người bán hàng tài giỏi biết nhận xét, phán đoán rất nhanh,  có thể biết ngay được lúc nào là lúc kết thúc mà đưa ra lí lẽ cuối  cùng để thuyết phục. Thiếu tài mẫn cảm đó thì việc sẽ thất bại.
Một người bán hàng thờ ơ thường giống một người chơi quần  vợt có những tài tình nhưng luôn luôn bỏ dở cuộc.
Nhưng tật đó dễ sửa. Người nào chịu luyện tư cách, đức tự  tin, mà lại biết chú trọng tới thực tế thì có thể trở nên giỏi trong  nghề bán hàng. Mà luyện tập như vậy chẳng tốn kém gì cả.
Muốn tiến lên một địa vị cao, có nhiều danh vọng trong nghề  bán hàng thì nên khởi sự bằng nghề bán bảo hiểm sinh mạng (tôi  bắt đầu bằng nghề đó). Công việc này mệt nhọc, nhưng người nào  chịu làm thì sẽ có nhiều phương tiện để lên một địa vị cao hơn,  lương bổng nhiều hơn và hợp với thị hiếu của mình hơn.
Bán hàng là một nghề mạo hiểm khá thích thú. Phải có cao  vọng mới thích làm nghề đó vì thương mại là nghệ thuật thứ nhì  đã làm cho nhân loại văn minh. Nó không phải là nghệ thuật thứ  nhất vì trong số những người thỏa mãn được nhu cầu của nhân  loại, có công đầu là những nhà sản xuất dùng hai bàn tay mà tạo  các sản phẩm, và những nhà sáng tạo đã giúp chúng ta có đồ dùng  làm việc.
Nhưng sau những nhà sáng tạo và sản xuất mở đường cho  văn minh, phải kể tới các thương nhân. Chính hạng này xông pha  vào các miền hẻo lánh để đổi chác vật dụng mà làm cho cá nhân và  các dân tộc gần gũi nhau lại.
Dân ở Tyr hồi xưa bán lụa và các hóa vật phương Đông để  đổi lấy thiếc của Anh trên các thị trường Tyr và Alexandrie; những  nhà buôn đem đổi các sản phẩm văn minh Địa Trung Hải để lấy  da thú và hổ phách ở miền biển Baltique; những người tổ chức con  đường thương đội (tức con đường chở lụa) từ Trung Hoa tới Tây  Âu; những nhà mạo hiểm trên biển ở châu Mỹ hoặc ở phương  Đông, những thương nhân gan dạ ở Canađa, và những nhà buôn  giao thiệp với họ ở Luân Đôn, tất cả những người đó đều là tổ tiên  của người người bán hàng ngày nay. Nhờ họ mà sức sản xuất tăng  lên và có lợi vì họ có công lưu thông, trao đổi hàng hóa từ miền này  tới miền khác, xứ này qua xứ khác.
Dân các xứ đó sản xuất bằng trí óc và tay chân. Và dùng  thương nhân làm trung gian; những người này đem trí óc ra mà tìm cách cung cấp cho mỗi miền, mỗi xứ những sản vật của miền  khác, xứ khác.
Các nhà sản xuất tạo nên được một dân tộc, một nền văn  minh nhưng sự thành công, địa vị của dân tộc đó, nền văn minh đó  tuỳ thuộc tài năng của hạng thương nhân trong nước.
Vậy thanh niên nào tiến vào con đường thương mại có thể tự  hào là phụng sự đắc lực cho nhân loại được.

03: Tay Trắng Làm Nên

Chương 5
ĐỌC SÁCH
Tôi muốn nhắc những bạn trẻ phàn nàn hồi nhỏ học hành dở  dang rằng sự học ta đã hấp thụ được, dù nó thô sơ tới đâu nữa,  cũng không thể làm trở ngại cho sự thành công của ta được.
Thế kỷ mười chín đã quá đề cao kiến thức, tôn sùng kiến  thức. Những nhà trí thức siêu quần thời đó cho rằng kiến thức có  ảnh hưởng lớn nhất trong đời sống. Mà thực ra, một nền giáo dục  tiếp thu được của người khác có thể bất tiện cho ta hơn là có lợi.  Một thanh niên xông vào đời đừng nên mắc cỡ rằng không có bằng  cấp đại học trong tay.
Đành rằng sự đào tạo thanh niên trong các ngôi trường khả  kính đó, cũng có giá trị chứ không phải không, nhưng phải là  người có óc tìm tòi mới tránh được nguy hại lớn lao của nền giáo  dục đại học: nguy hại đó làm cho thanh niên đang ở tuổi mà đầu óc  rất dễ bị ảnh hưởng, chỉ tôn trọng, mê say mỗi một phương diện  của tri thức mà khinh bỉ tất cả những phương diện khác.
Thực ra, có kiến thức là nhờ có tư cách, mà thành công không  phải là nhờ có kiến thức. Điều quan trọng là một người phải tự ý  muốn học hỏi thêm vì như vậy sự hiểu biết mới thực là của mình.
Đành rằng một em bé hoặc một thiếu niên phải nhờ thầy chỉ  bảo cho tất cả những điều mình có thể học được. Tôi nhìn nhận giá  trị của nền giáo dục đại học theo lối cổ và tôi còn khuyên các bạn  trẻ nên tiếp thu nó nữa. Hồi còn đi học những bạn nào có tinh  thần, có cao vọng, có óc mạo hiểm có thể nắm lấy tất cả các cơ hội  học hỏi thêm. Nhưng nếu bạn nào khó ghi nhớ được những lời giáo  sư ngồi từ trên bục cao truyền xuống như truyền một giáo điều thì  bạn đó cũng đừng nên vội thất vọng. Trái lại, có thể còn lấy làm  vinh hạnh rằng có nhiều danh nhân cũng như mình, chẳng hạn  ông Churchill, một vĩ nhân của Anh, hồi nhỏ chẳng đã làm cho  thầy giáo thất vọng đấy ư?
Sự giáo dục của tôi thô thiển lắm. Một người thời nay khó mà  tưởng tượng được đời sống trong làng Newcastle vào khoảng 1880.  Chỉ có vài khoảnh nhỏ là trồng trọt được, bốn bề là rừng hoang,  một con sông rộng mênh mông chảy qua. Suốt nửa năm, mặt đất  phủ băng và tuyết, và con sông Miramichi cuốn những tảng băng  ra tới tận ngoài vàm. “ở đây mưa chỉ như bụi trắng mà biển thì  không khác gì đá xanh”. Vào cái mùa đó và trong những điều kiện  như vậy, tất nhiên sự học không được đều đặn, buổi học buổi nghỉ.
Cho nên, ít khi tôi được thầy dạy, nhờ đọc sách và tiếp xúc  với người khác mà tôi có được chút kiến thức. Chính sự đọc sách  mới là cái nguồn của kiến thức. Điều quan trọng là đọc những sách  mình thích đọc chứ không phải là đọc những sách người khác  khuyên mình nên đọc. Đọc sách chỉ có lợi khi nào những điều  trong sách thâm nhập vào trí óc ta được.
Phải đọc nhiều, đọc đủ loại, như một người có bao tử bằng  thép, nuốt cái gì vào cũng tiêu hóa được hết.
Bất kỳ người nào, dù trí óc bình thường, cũng có thể tự luyện  cho mình một khả năng lựa chọn sách, nghĩa là luyện cái giám  thức. Có những cuốn phải liệng vào sọt rác, có những cuốn nên giữ  kĩ để đọc lại, sự lựa chọn loại sách tuỳ mỗi người.
Khi một người đã thích một loại sách nào hợp với mình thì là  người đó đã có giám thức rồi mà tự mình không hay, và tất nhiên  chẳng cần ai bắt buộc, người đó sẽ tìm tất cả loại sách ấy để đọc.
Có vài môn học và nhiều thanh niên cho là cần thiết để  thành công trong công việc kinh doanh. Trước hết là môn toán rồi  tới môn ngoại ngữ. Môn toán cao học không thực là cần thiết cho  sự thành công, nhưng có điều những người nắm vững môn toán  cũng chính là những thành công trong lĩnh vực kĩ nghệ và tài  chính.
Tôi tiếc rằng tôi đã được đào tạo trong nghề kinh doanh tại  một lục địa mà trong sự giao thiệp trên thương trường, người ta  chỉ dùng mỗi một ngôn ngữ từ Bắc cực tới vịnh Mexico. Thành thử  tôi mù tịt về những sinh ngữ khác.
Tôi cho rằng sinh ngữ là môn quan trọng nhất cần phải biết  để thành công trong việc kinh doanh, nhưng ý kiến của tôi có thể  sai vì tôi không biết chút gì về sinh ngữ, như tôi đã nói.
Nhưng suy đi tính lại thì thị trường mới thực là trường đào  tạo nhà kinh doanh. ở đó, một thanh niên có lương thức có thể tìm  hiểu cá tính của các hạng người và nhờ vậy tự lập được một cái  thang giá trị trong giới kinh doanh.
Kinh nghiệm sẽ cho thanh niên đó thấy rằng không phải vì  thiếu những tri thức về lí thuyết mà người ta thất bại trong cuộc  mạo hiểm là đời sống đâu.
Cách đây đã lâu, Huân tước Bickenhead hỏi tôi định cho các  con trai tôi học trường nào. Tôi đáp rằng chưa hề nghĩ mà cũng  không quan tâm tới vấn đề đó. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên vô cùng.
Nguyên nhân chính của sự thờ ơ đó là tôi thầm tính rằng trẻ phải làm chủ vận mệnh của nó và chỉ có nó mới làm chủ vận mệnh  của nó thôi. Nếu nó muốn thành công trong ngành văn học hoặc  trong một ngành nào khác thì nó cứ đọc sách, đọc cho thật nhiều,  cho tới khi óc mở mang đủ phân biệt được cái xấu và tốt, cũng như  một người sành rượu chỉ nhìn qua một thứ rượu nào đó cũng nhận  được là rượu ngon hay không.
Có thể rằng người đọc sách và người uống rượu chỉ dùng trực  giác mà nhận định được sách này hay, rượu này ngon chứ không  đưa ra được một lí lẽ khách quan nào. Nhưng không phải vì vậy  mà sự phán đoán của họ sai. Khi họ bảo “Cuốn sách đó viết hay”,  “Thứ rượu này dở” thì ta có thể tin họ được.
Cho nên tôi muốn khuyến khích những thanh niên không có  bằng cấp trung học hay đại học quyết chí thành công trong việc  kinh doanh. Theo tôi nghĩ, có một cái nguy hại là học đường  thường đào tạo một hạng thanh niên “tiêu chuẩn”. Một người có cá  tính mạnh mẽ phải biết tự đào tạo lấy chứ không trông mong  nhiều ở học đường.
Rất có thể rằng tới lúc hành động, hạng người có cá tính  mạnh mẽ thắng hạng người “tiêu chuẩn”.
Muốn có một bút pháp thì chỉ có cách đọc sách cho nhiều, đọc  những sách mình thích. Muốn sành rượu thì không có gì bằng nếm  thật nhiều thứ. Không có gì tập cho ta quen công việc kinh doanh  bằng cách thực hành nó, thực hành ngay từ hồi trẻ, nửa vì thích,  nửa vì muốn có kinh nghiệm.
Con người tạo ra vận mệnh của mình chứ không phải là để  cho nó lôi cuốn. Vậy ta có thể thắng nền giáo dục ta đã hấp thụ  được. Ta phải tự đào tạo lấy ta.
Thiếu những lí thuyết căn bản thì vẫn có thể tiến trên đường  đời được.
Thanh niên nào cũng có cơ hội để làm nên sự nghiệp miễn là  chịu quyết chí làm việc, dành dụm một số vốn, sống điều độ, tránh  thói ngạo mạn và thói sợ sệt, can đảm đương đầu với các cuộc  khủng hoảng, không hề sờn lòng. Lại phải biết thận trọng khi cất  cánh bay bổng, dù có là một thiên tài thì cũng không được trái  những luật an toàn.
Bí quyết để tạo nên quyền lực là biến nhiệt tâm hồi trẻ  thành kinh nghiệm và kiến thức. Tôi đã chỉ cho bạn một con  đường tắt để thực hiện điều đó.
Tôi đã trải qua tuổi trẻ. Bây giờ tôi đã có kinh nghiệm. Tôi  tin rằng thanh niên có thể đạt nguyện vọng của mình được nếu  nhiệt liệt muốn thành công. Tôi cũng tin rằng chỉ cần một chút  kinh nghiệm buổi đầu là tránh được những vực thẳm mà những kẻ  táo bạo nhất thường gặp trên con đường kinh doanh của mình.
Do kinh nghiệm bản thân mà tôi tin chắc những điều tôi mới  biết đó.
 
Chương 6
CÁCH ỨNG BIẾN
Tài ứng biến là hình thức đơn sơ nhất của khả năng sáng  tạo. Nó là nghệ thuật đọ sức với sự bất ngờ, lợi dụng những hoàn  cảnh bất ngờ.
Thanh niên nào muốn thành công phải tập cho thuần nghệ  thuật đó, thuần tới mức nó trở thành một phản ứng tự nhiên, óc  mình lúc nào như cũng đợi thời cơ, không bao giờ bị hoang mang,  lạc nẻo khi gặp một tình thế chưa hề tính trước.
Khả năng ứng biến có một vị trí lớn trong nghệ thuật sống.  Trong nghệ thuật thành công về doanh nghiệp, nó còn quan trọng  vô cùng.
Tôi nhiệt liệt khuyên các bạn trẻ học cách ứng biến nếu  muốn thành công.
Những tấm gương tôi đưa ra dưới đây đều là những nhân vật  trong chiến tranh, như vậy không phải là vì tôi cho rằng thanh  niên ngày nay cần chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh dã man và  vô lí nữa. Trái lại, tôi rất mong họ được sống trong cảnh thái bình.  Nhưng trong chiến tranh có nhiều vấn đề xuất hiện một cách  thình lình, mạnh mẽ, cho nên dùng làm thí dụ để nêu gương thì  không gì bằng.
Thanh niên nào muốn tập ứng biến nên nghiên cứu trước hết  đời Huân tước Winston Churchill. Hầu hết mỗi hành động của ông  trong thời chiến đều có tính cách ứng biến.
Cuộc chiến đấu của nước Anh chống xâm lăng là một bản  anh hùng ca nhờ tài ứng biến của một số người, nhờ tài khéo léo  nắm cơ hội, nhờ những sự quyết định của cá nhân và nhờ những  phương tiện ứng phó kịp với hoàn cảnh. Lúc đó ai cũng tin rằng  quân Đức từ bờ biển Pháp thế nào cũng ồ ạt qua xâm chiếm nước  Anh; làm sao ngăn chặn chúng được?
Tình thế yên hay nguy hoàn toàn do phi cơ Anh làm chủ  được không phận hay không. Muốn làm chủ không phận thì phải  có nhiều phi cơ khu trục. Rốt cuộc Anh đã thắng trận đó nhờ tài  năng và lòng hi sinh của phi công, đành rồi, nhưng cũng là nhờ  chính phủ đã biết liệng vào sọt giấy tất cả những kế hoạch đẹp đẽ  để chế tạo cấp tốc nhiều phi cơ mà đối phó kịp với hoàn cảnh. Nếu  cứ ngồi đó mà nghiên cứu kế hoạch thì nhất định là thua; nhờ chế  tạo phi cơ mới thắng được.
Đầu thế chiến, quân đội Anh thua trên lục địa (tức Pháp, Bỉ),  mất nguồn tiếp tế thực phẩm. Kĩ nghệ hàng không cần nhất là  nhôm. Mà lúc đó không còn nhận được chất bauxite, một thứ  quặng nhôm nữa. Ba phần tư số sắt, thép nhập cảng và đại đa số  quặng sắt đến từ châu Âu qua đường lục địa đã bị quân Đức  chiếm, Anh làm sao đương đầu với cuộc khủng hoảng đó được?
Bằng mọi cách phải tìm những nguồn tiếp tế mới, tạo những  đường chuyên chở mới, để nhập cảng nhôm, sắt, thép. Đã mất thị  trường châu Âu thì phải tìm nguồn hàng ở thị trường châu Phi và  châu Mỹ.
Tháng chạp năn 1941, Churchill đòi “có được thêm nhiều khí  cụ để làm việc”. Ông ấy có đợi người ta thành lập một cơ quan  không? Ông ấy có tin ở máy móc không? Có bắt Bộ Quân nhu phải  làm việc theo đúng những nguyên tắc hành chính không? Tuyệt  nhiên không. Ông qua Washington tìm kiếm khí giới và tàu cho  lục quân và thuỷ quân Anh. Và ông dắt tôi đi theo.
Tới Washington, chúng tôi thấy rằng người Mỹ đã thiết lập  cả một chương trình sản xuất. Họ đã nghiên cứu kế hoạch cực tỉ  mỉ, coi trên giấy, ra vẻ đồ sộ lắm. Các kế hoạch đó đóng lại thành  tập rất đẹp đẽ, có tài liệu còn đem in nữa, thật là tuyệt khéo,  không còn chê vào đâu được.
Nhưng trong cái công trình lí thuyết đẹp đẽ đó, có một điểm  không ổn: là kế hoạch không hợp với nhu cầu của các nước Đồng  minh.
Nhiệm vụ của tôi là giải thích cho Chính phủ Mỹ hiểu điều  đó. Tôi phải chứng minh rằng Chính phủ Washington sản xuất khí  giới theo khả năng vĩ đại của Mỹ, chứ không phải theo những suy  tính tỉ mỉ của các nhà chuyên môn lập kế hoạch.
Muốn vậy thì Chính phủ Mỹ phải bỏ lề lối cũ đi mà ứng biến  theo một đại quy mô chưa từng thấy mới được.
Tạp chí của chính quyền: Industsial Mobilisation for war  (Động viên kĩ nghệ cho chiến tranh) ghi lại nỗi xúc động mà chúng  tôi đã gây ra ở Washington. Chúng tôi bất chấp những nghi thức  ngoại giao, lặp đi lặp lại hoài quan điểm của chúng tôi với các nhà  lãnh đạo ở toà Bạch ốc, với ông Phó Tổng thống và trong tất cả các  cuộc tiếp xúc khác.
Tôi phải chiến đấu với Tổng thống Roosevelt, tấn công ông  liên tiếp bằng thư từ, thuyết minh; trong các cuộc hội đàm riêng,  tôi ráng chứng minh cho ông thấy rằng phải bỏ mọi kế hoạch đi  mà xông vào con đường sản xuất quy mô khổng lồ mới được. Cuộc  vận động của chúng tôi hăng hái tới mức tất cả Washington phải  tham dự vào, cả những nhật báo nữa, gây một sự kích thích mạnh  trong mọi giới.
Lí lẽ tôi đưa ra đều dựa trên kinh nghiệm bản thân của tôi.  Tôi cho rằng nước Mỹ năm 1942 có thể sản xuất một mình được:
45.000 xe thiết giáp, 17.700 đại bác chống chiến xa, 45.000 đại bác  phòng không, 24.000 phi cơ khu trục, và nhiều chiến cụ khác nữa.
Các nhà chuyên môn lập kế hoạch la lên, bảo tôi có điên  khùng mới đặt vấn đề như vậy.
Không nghi ngờ gì nữa, nếu Tổng thống Roosevelt không có  óc thực tế để nhận thấy giá trị đề nghị của chúng tôi rồi chấp  thuận nó thì người ta đã theo chương trình của các kế hoạch gia đó  rồi. Và nếu chủ trương của các kế hoạch gia trong phòng giấy đó  mà thắng thì Đồng minh đã không thắng được Đức năm 1945.
Nhờ Tổng thống Roosevelt mà người Mỹ chấp nhận dự tính  của chúng tôi về khả năng sản xuất. Người ta lập ngay một  chương trình chế tạo cần tới hàng tỉ Mỹ kim rồi đưa qua Quốc hội  biểu quyết. Nhờ chương trình đó mà chúng ta mới đè bẹp quân  địch được về phương diện võ bị.
Rốt cuộc chẳng những người Mỹ thực hiện được mà còn vượt  chương trình sản xuất đó nữa. Phương pháp ứng biến đã thắng  thủ tục kế hoạch.
Thời bình cũng như thời chiến, hễ gặp cơn nguy, thì luôn  luôn phương pháp ứng biến tỏ ra có hiệu quả đặc biệt. Người nào  bị cột chặt vào thủ tục thì chưa chiến đấu đã thua rồi vì bỏ phí quá nhiều thì giờ để suy nghĩ và do đó, bị biến cố vượt mất. Người biết  ứng biến đã lựa xong được một chiến thuật mới mà kẻ giữ thủ tục  vẫn chưa xét xong các khía cạnh của vấn đề.
Nhưng chỉ nên ứng biến trong khi còn kịp thắng được tình  thế. Theo thủ tục hành chính cho tới khi mọi việc đã hỏng, rồi hi  vọng rằng lúc đó còn có thể ứng biến để lật lại tình thế như một  phép mầu là hi vọng hão. Phải biết ứng biến kịp thời từ khi những  khó khăn đầu tiên mới xuất hiện. Lúc đó, dễ diệt chúng lắm, để  muộn thì không sao thắng chúng được nữa.
Người nào biết quyết định mau mắn, rồi lại biết mau mắn bỏ  những quyết định đó nếu thấy nó không có kết quả tốt thì gặp  những tình thế ghê gớm nhất, cũng có thể lợi dụng nó được.
Biết ứng biến mau mắn, chuyển họa thành phúc thì nhất  định là thành công.
Vậy phải coi chừng những con người có tinh thần cứng nhắc,  cố chấp. Con người ngồi êm ái trong chiếc ghế bành rồi vui vẻ trình  bày tại sao việc này không làm được, việc kia làm không được thế  nào cũng thua con người đại đởm, chịu khó tìm cách làm cái việc  không thể làm được đó.
Nói cách khác: bạn nên coi chừng đấy, đừng mắc cái chứng  thư lại. óc quá chú trọng tới giấy tờ, nguyên tắc hành chính là kẻ  thù của óc quyền biến.
Các nhà tổ chức luôn luôn có khuynh hướng tổ chức quá mức  mà sự tổ chức quá mức, quá tỉ mỉ đưa xí nghiệp tới sự sụp đổ.
Điều đó được chứng minh ở Liên bang Xô Viết rõ hơn ở đâu  hết. Liên bang Xô Viết tin ở chính sách thiết lập kế hoạch sản xuất  dài hạn và kiểm soát chặt chẽ từng ngành kĩ nghệ một. Chính  Xtalin kể lại cuộc đàm thoại dưới đây giữa ông và một ủy viên  nhân dân có trách nhiệm tổ chức các nông trang tập thể.
Xtalin: - Công việc gieo mạ tới đâu rồi?
Ủy viên: - Thưa đồng chí Xtalin, đồng chí hỏi về công việc  gieo mạ ư? Thì lúc này chúng tôi chỉ lo tiến hành công việc đó.
Xtalin: - Tốt, rồi sao?
Ủy viên: - Chúng tôi sẽ nghiên cứu tỉ mỉ từng tiểu tiết một  của vấn đề.
Xtalin: - Vậy thì tới đâu rồi?
Ủy viên: - Thưa đồng chí Xtalin, đương có sự thay đổi. Một sự  thay đổi quyết định.
Staline: - Rồi làm sao nữa?
Ủy viên: - Chúng tôi có thể nói rằng sẽ có một sự tiến bộ vĩ đại.
Xtalin: - Vậy thì công việc gieo mạ tiến tới đâu rồi? 
Ủy viên: - Thưa đồng chí Xtalin, tới hôm nay vẫn chưa khởi sự ạ.
Chắc chắn là các nhà tổ chức có một vai trò lớn trong hoạt  động kinh doanh của loài người. Nhưng vai trò đó không bao giờ  được coi là chủ yếu vì nếu vậy thì tổ chức sẽ hóa ra vô ích.
Người thành công bẩm sinh đã có tinh thần tổ chức nhưng sở  dĩ thành công là vì không chịu nô lệ óc tổ chức. Người đó không  khi nào kiên nhẫn chịu đựng những cuộc họp kéo dài không dứt,  trong đó người ta chỉ đua nhau múa mỏ và ngăn chặn mọi hành  động.
Người thành công cũng không cho các “kế hoạch” một giá trị  quá đáng. Kế hoạch có thể sai. Khi thấy sai, người ta lại lập những  kế hoạch mới một cách rất kĩ lưỡng để đem ra thực hiện nhưng  trước khi thực hiện phải trình lên cấp trên để được chấp thuận đã  và tới khi được chấp thuận thì tình thế đã thay đổi hẳn rồi, không  thể đem thực hiện được nữa.
Nếu phải đợi phản ứng của một cơ quan, một tổ chức, một  cuộc họp thì không thể nào đối phó kịp với một tình thế bất ngờ.
Đó là một bài học mà không bao giờ tôi quên được. Cho nên  tôi xin khẩn khoản nhắc các vị chủ xí nghiệp phải đặc biệt coi  chừng hoạt động của các phòng quản lí, đừng để họ hoạt động trái  với quyền lợi của hãng. Đặt ra phòng quản lí là để cho công việc  chạy chứ không phải để ngăn cản công việc.
Nếu ta không coi chừng thì nhân viên tổ chức đáng lẽ phục  vụ kĩ nghệ sẽ biến thành những ông chủ độc tài mất. Tới mức đó  thì xí nghiệp bắt đầu suy sụp rồi. Sự tổ chức quá mức là kẻ thù  của sự hoạt động trong công việc kinh doanh.
Trong chiến tranh, quốc gia thắng được nhờ các người chỉ  huy biết ứng biến; nhưng, các nhà tổ chức vẫn có thể giữ vai trò  quan trọng trong đời sống kinh tế. Trong hoàn cảnh đó, chính phủ thành khách hàng duy nhất, tiêu thụ tất cả những sản phẩm  trong nước. Trên thị trường không còn luật cung cầu nữa, mà mọi  sự đổi chác đều theo nguyên tắc này: giá bán bằng giá vốn cộng  thêm mấy phân lãi. Do đó mà năng xuất giảm đi, tiền công tăng  lên một cách tai hại; trong các khu vực hoạt động kinh tế, chỉ nhờ  có lòng ái quốc mà người ta hãm bớt được mọi sự quá lố.
Khi thái bình trở lại, phải một thời gian lâu tình trạng đó  mới mất được. Các nhà sản xuất lúc đầu vẫn theo lối cũ trong thời  chiến: Định giá bán bằng giá vốn cộng cới mấy phân lãi; còn các  nhà cầm quyền cũng không vội gì từ bỏ cái uy quyền lớn của mình,  uy quyền kiểm soát kĩ nghệ. Người ta không thèm nghe lời những  kẻ đòi thay đổi tình thế, người ta bỏ qua những cơ hội mới. Các  nhà chuyên môn về kế hoạch vẫn làm mưa làm gió được trong một  thời gian.
Nhưng dần dần sự kiểm soát của chính phủ nới lỏng ra mà  năng suất trong các xí nghiệp tăng lên, kinh tế lấy lại sức. Và môi  trường hoạt động lại mở rộng cho sự tự do kinh doanh.
Còn một nguy hại nữa cũng liên quan tới sự tổ chức quá mức.  Tôi muốn nói tới cái nguy hại giao một cơ sở kinh doanh mới thành  lập cho những người rất thạo việc, “cái gì cũng biết”. Người ta  thường nghĩ rằng muốn cho một xí nghiệp thịnh vượng thì phải  tìm cho được người nào có nhiều kinh nghiệm nhất mà giao cho  việc điều khiển. Và người ta tự nhủ một con người như vậy phải là  người đã thành công trong nhiều xí nghiệp. Người ta bèn nhờ cậy  người đó điều khiển xí nghiệp mới thành lập của mình, tin chắc  rằng trước kia người đó đã thành công thì không lí gì bây giờ lại  thất bại.
Khốn nỗi, trong thực tế không luôn luôn như vậy. Nói cho  đúng thì cách làm ấy rất sai lầm. Vì áp dụng nó mà xảy ra rất  nhiều lầm lẫn và thất bại. Thường khi - tôi muốn nói rất thường  nữa - lựa một người như vậy là bạn phải chịu đựng một ông già  mệt mỏi về thể chất và tinh thần, ý kiến hẹp hòi và không muốn  bỏ lối làm việc cũ của mình. Đa số họ là những người hẹp hòi, cố  chấp, không chịu nhìn rộng ra chung quanh, không có tinh thần  ứng biến và do đó không thể đối phó với tình thế mới trong một thế  giới luôn luôn thay đổi.
Muốn mở một xí nghiệp mới thì phương pháp thích nghi nhất  là lựa những người mới, muốn vậy phải giỏi tâm lí, biết bản tính con người. Những người mới đó, có tài năng, sẽ học nghề và sẽ mau  có kinh nghiệm. Trước hết phải biết mình cần những đức nào ở  người mình sẽ giao việc, rồi mới tìm những người có những đức đó,  những đức chưa được đem thi thố nhưng chỉ đợi có dịp là phát  triển. Nếu người bạn lựa thực sự có những đức đó thì bạn có thể  chắc chắn rằng bạn là một người sung sướng và mọi việc sẽ xảy ra  như ý muốn của bạn.
Những người như vậy sẽ biết nắm lấy mọi cơ hội thuận  thiện. Họ có ích cho xã hội.
“Sung sướng thay kẻ nào tìm thấy sức mạnh ở lòng tin mà  tấm lòng hợp với chí hướng của anh. Đi qua cái thung lũng đau  khổ này, kẻ đó sẽ đào một cái giếng và các hồ sẽ đầy nước”.

01: Tay Trắng Làm Nên

Chương 1
CÁCH DÙNG CHÌA KHÓA SỐ I
Viết cuốn này tôi muốn cho độc giả thấy rằng ba điều kiện  căn bản cho sự thành công là có lương thức, ham hoạt độngsức  khoẻ.
Nếu chỉ có hai trong ba điều kiện đó thôi thì cũng có thể đi  khá xa được; nhưng phải có đủ cả ba mới tiến xa, xa lắm được.
Có ngoại lệ nào để chứng minh quy tắc đó không? Tôi chỉ  thấy có mỗi một trường hợp có thể coi là ngoại lệ, trường hợp  Franklin Delano Roosevelt. Roóevelt là một danh nhân mà sức  khoẻ thật là tệ hại. Nếu ông không mắc một bệnh nặng thì chắc gì  ông đã thành một vĩ nhân.
Trái lại, trong suốt cuộc đời thành công kỳ dị của Huân tước  Winston Churchill, luôn luôn ta thấy ông có đủ ba chìa khoá đó:  một lương thức vững vàng, một sức hoạt động dồi dào, một thể  chất gang thép.
Nhìn lại cuộc đời Churchill, ta thấy rằng tuy ông bẩm sinh  đã có sẵn những điều kiện đó, nhưng ông đã biết luyện tập thêm  để cải thiện lương thức, tăng cường sức hoạt động và giữ gìn sức  khoẻ. Nếu chúng ta, ngay từ hồi trẻ, quyết tâm tu luyện những  đức đó, thì chắc chắn có thể thành công rực rỡ trong nghề mình đã  lựa.
Trong đời không có gì chua xót bằng sự thất bại. Sở dĩ nó  chua xót nhất là vì dường như bao giờ cũng xảy ra do một sự lầm  lỡ mà ta có thể tránh được. Sự thất bại không phải là do tiền định.  Ai cũng có thể thành công trong cuộc đời của mình.
Đáng buồn là trong đa số các trường hợp, phải mất nhiều thì  giờ, bỏ qua nhiều dịp may rồi chúng ta mới tìm thấy được xu  hướng tự nhiên của chính mình. Do đó mà có lầm lỗi. Một thanh  niên có thể lựa một nghề không hợp với mình mà hóa ra thất bại  nhưng cũng có thể lựa được một nghề hợp với mình mà cũng vẫn  thất bại vì không được hoạt động trong một lĩnh vực thực hợp với mình, thành thử bị chủ đánh giá thiếu khả năng, không giúp được  gì hoặc giúp rất ít cho hãng. Thanh niên đó có thể tự chấp nhận sự  thất bại của mình, điều đó mới đáng lo nhất, vì một khi chịu nhận  rằng mình thất bại thì đã thành con người bỏ đi rồi.
Nhưng bất kì người nào hồi trẻ lao tâm mệt trí một cách vô  ích để làm một việc không hợp với mình đến nỗi thất bại, cũng có  thể đổi nghề mà thành công rực rỡ trong một lĩnh vực hoạt động  khác. Tôi xin kể một thí dụ thực tế: nghề bán hàng cần nhất đức  lạc quan; nhưng chính cái đức lạc quan đó có thể bất lợi cho một  hãng buôn nếu đem dùng nó vào công việc tài chính. Vậy một hại  trong ngành tài chính có thể đưa bạn tới thành công trong ngành  bán hàng. Cho nên đừng thấy một thanh niên mới thất bại lần đầu  mà đã vội bảo rằng con người đó bỏ đi. Cho người đó thử một việc  khác, biết đâu người đó chẳng thành công.
Huân tước Reading mới đầu tập sự thủy thủ trên một chiếc  tàu. Chắc ông không phải là một thủy thủ giỏi. Tôi ngờ rằng xếp  của ông phải lắc đầu phàn nàn: "Chú em này làm việc dở. Không  bao giờ nên thân đâu". Mà sự thực, nếu cứ ở trong ngành thuỷ  quân thì ông tất đã chẳng làm nên công trạng gì hết. Nhưng ông  đã bỏ ngành thủy quân và ông đã tiến tới đâu? Tới chức Trưởng  quan Tư pháp của Anh rồi tới chức Phó vương ấn Độ.
Trong mọi việc, sự thành công một phần là do định mệnh,  một phần là do ý chí tự do của mình. Chúng ta không thể tạo ra  được thiên tài, nhưng có thể bồi bổ hoặc tiêu diệt nó.
Những điều kiện nào đưa tới thành công? Tôi xin lặp lại lời  đáp của tôi: lương thức, tức óc phán đoán (sáng suốt, thực tế), hoạt  động và sức khoẻ. Quan trọng nhất là lương thức.
Bất kì trong công việc nào, cũng cần có lương thức trước hết.  Nhiều người xây dựng được những lí thuyết rất hay, nhưng không  thực hiện nó được. Thiếu lương thức thì những ý tưởng tố đẹp của  họ chỉ đưa họ tới sự sụp đổ.
Nhờ có tài năng thiên phú, người ta có thể đi thẳng vào  trung tâm vấn đề, như một mũi tên nhắm trúng đích trong khi cả  ngàn mũi khác bắn trượt ra ngoài hết; nhưng phải có lương thức  thì ta mới ghi nhận được những điều ta cần phải học hỏi ở trong xã  hội, để biết rõ hơn về xã hội và có định hướng hoạt động mà ảnh  hưởng lại tới xã hội. Lương thức vừa là khả năng tiêu hóa tri thức  vừa là khả năng ứng dụng những tri thức đó.
Nhưng có lương thức mà thiếu đức hoạt động thì cũng không  có kết quả. Cũng như cối xay bột, phải đổ gạo vào, nó mới xay  thành bột được. Hoạt động tức là đổ gạo vào cối.
Cho nên luôn luôn phải chú ý, sẵn sàng. Có thể trong một lúc  bỏ lỡ một cơ hội rất tốt và chỉ cần sơ ý một chút là mắc một lỗi lầm  không thể tha thứ được. Văn hào Kipling bảo: “Ai muốn làm César  ở bất kì chỗ nào thì phải biết rõ mọi điều ở khắp nơi”. Người nào  biết rõ một điều ở khắp nơi thì không để lỡ một cơ hội nào hết.
Bẩm tính con người hầu hết là biếng nhác, vô hi vọng hoặc  hoạt động một cách tuyệt vọng. Hoàn cảnh có thể hướng họ về phía  này hay phía khác, nhưng không có người nào bị cấm làm việc. Tài  trí cần được sử dụng một cách có ý thức, vì vậy mà sự hoạt động  phải được lương thức nâng đỡ. Muốn hoạt động có hiệu quả cao, thì  phải biết tập trung; thuật tập trung mà ta có thể học bằng nhiều  cách, là một điều kiện quan trọng nhất cho sự thành công. Nếu đã  luyện được đức hoạt động rồi, thì đừng bao giờ để cho nó phân tán.
Nhưng sức khoẻ mới là nền tảng của cả lương thức lẫn hoạt  động, và do đó, là nền tảng của sự thành công. Không có sức khoẻ  thì việc gì cũng hóa khó. Nếu sáng dậy người ta đã quạu quọ thì  làm sao trong ngày, óc có thể sáng suốt được, và có thể tỏ ra có  lương thức được? Bị một bệnh nan y thì ai là người có thể làm việc  tích cực được?
Tương lai thuộc về những người chịu tập thể dục mỗi buổi  sáng miễn là đừng quá độ. Không một thương nhân nào có thể hi  vọng thành công được nếu không rèn luyện cơ thể đúng phương  pháp, nhưng phải coi chừng đấy, đừng như hạng lực sĩ tưởng rằng  hễ thắng được mình là thắng được thế giới; niềm tin đó nguy hiểm  lắm. Hạng lực sĩ không bao giờ nghĩ tới sự sẵn sàng làm việc mà  chỉ nghĩ tới chuyện thắng kẻ khác trong một cuộc đua nào đó thôi.  Lúc nào óc họ cũng có thể đưa họ tới sự thất bại, sự chán chường,  bất lực.
Sự đeo đuổi khoái lạc cũng có tính chất phù du không kém.  Thời gian và thói quen đều diệt cái thú của mọi sự tiêu khiển. Thú  vui buổi tối đâu có đủ bù cái khổ nhức đầu sáng sớm hôm sau.
ở tuổi trung niên người ta thường mới thành công trong công  việc hàng ngày; đó là tuổi dễ chịu nhất trong đời người vì những  gắng sức trong tuổi thanh xuân tới lúc đó mới chín muồi.
“Thú vui thoảng qua như mây nổi”. Tôi không rưa những thứ  phù vân và tôi cho rằng đời sống phải là một sự phối hợp điều hòa  giữa lao động và nghỉ ngơi, hoan lạc. Tôi có thể nói chắc rằng trong  sự phối hợp đó, nếu có một yếu tố nào phải lấn yếu tố kia, thì yếu  tố đó chính là lao động. Lao động nhiều quá không có hại bằng  hoan lạc nhiều quá.
Chưa bao giờ như lúc này, thế giới rộng mở bát ngát đến tận  chân trời với rất nhiều cơ hội cho những ai có khát vọng thành  công, mong muốn được làm việc một cách bền bỉ, kiên trì và sáng  tạo, có ý thức. Không một trở ngại nào từ phía con người có thể  ngăn con đường của họ. Không có gì cấm họ từ cảnh nghèo hèn mà  leo lên được những đỉnh cao của giàu sang và quyền thế.
Cần luôn nhắc lại hoài rằng kẻ nào chịu khó thì có thể cải  thiện lương thức, rèn luyện đức hoạt động và giữ gìn sức khoẻ của  mình được.
Đó là nền tảng của sự thành công.

Chương 2
CẦN PHẢI GÂY VỐN
Người ta bảo rằng tiền bạc là nguồn gốc của mọi điều xấu xa,  tội lỗi. Câu nói đó không đúng. Nếu đôi khi tiền bạc dùng vào  những mục đích xấu thì không phải tiền bạc đáng trách mà kẻ  dùng nó mới là đáng trách.
Có người cho tôi là tuyên truyền cho chủ nghĩa duy vật triệt  để. Nghĩ vậy là sai. Tôi hoàn toàn công nhận rằng có những giá trị  khác ngoài giá trị tiền bạc. Nhưng tôi không bao giờ nghĩ người  nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm lại đánh mất giá trị của bản thân khi  tác phẩm ấy mang lại cho anh ta một khoản tiền lớn.
Gần đây, những người kiếm được tiền thường bị thiên hạ  nghi ngờ một cách bất công, mà những kẻ nghi ngờ lại chính là  những ông những bà nếu có cơ hội thì sẽ làm tiền mạnh hơn ai hết.  Trúng số thì người ta cho là một điều tự nhiên, mà tạo được một  sản nghiệp bằng mồ hôi nước mắt, rồi nhờ có sản nghiệp mà giúp  cho hàng ngàn người có công ăn việc làm, được sung sướng thì lại  bị các chính khách và các nhà báo mạt sát là đáng đầy xuống địa  ngục. Tôi cho đó là thái độ ghen ghét độc ác của những con người  xấu xa.
Người ta đã nói và viết nhiều điều giả nhân giả nghĩa về tiền  bạc. Nhưng chúng ta không nên quên rằng nếu làm giàu một cách  bất lương là điều đáng chê thì sự nghèo khổ cũng không luôn luôn  là đáng khen.
Nói cho đúng, có hai thứ giá trị đi đôi với tiền bạc: một là giá  trị của những phẩm chất cần có khi đang kiếm tiền; hai là giá trị  của cách sử dụng đồng tiền kiếm được như một công cụ thể hiện  sức mạnh của người có tiền.
Nghệ thuật kiếm tiền cần sự quả quyết, tập trung, dành  dụm, tự chủ; những yếu tố đó chính là nguyên động lực của thành  công và hạnh phúc. Một người đã biết tự chủ khi kiếm tiền thì tới khi có tiền, cách sử dụng đồng tiền cũng tạo cho người đó một sức  mạnh, để có thể làm chủ được hoàn cảnh.
Trừ hai đặc tính đó ra - luyện tư cách và tạo nên sức mạnh -  tiền bạc có ít giá trị lắm. Tội nó cũng ngang với công của nó. Chính  vì vậy mà một người biết làm chủ của cải của mình ít khi nghĩ tới  việc để lại một gia tài đồ sộ cho con cháu. Người đó biết rõ rằng  phải để cho con cái tự tôi luyện trong khó khăn, không được hưởng  chút di sản nào ngoài óc thông minh và tư cách, thì chúng mới  thành những con người có giá trị được.
Theo Mahomel thì Thượng Đế luôn lựa những nhà tiên tri  của Ngài ở trong đám thường dân. Vả chăng ai cũng biết rằng giàu  sang mà không minh triết thì thường khi chỉ có hại cho thể chất  hoặc tinh thần. Những thanh niên gia đình giàu có, vì ăn ngon  mặc đẹp, được hưởng mọi sự dễ dãi mà dễ chết yểu.
Cho nên tiền của sở dĩ có giá trị chỉ là do nó bắt ta phải gắng  sức, khó nhọc để kiếm nó rồi biết cách dùng nó. Vậy dự tính làm  giàu là điều đáng khen, nhưng thực hiện nó cách nào đây?
Tôi xin trình bày vài quy tắc rõ rệt để dìu dắt một thanh  niên từ hai bàn tay trắng mà gây dựng được một gia sản lớn lao.
1 - Chiếc chìa khoá mở cửa thành công cho ta là bản năng  thương mại, tức cái bản năng nhận định được một cách tự nhiên,  tức thì, khỏi phải suy luận, giá trị thực của bất kỳ một món hàng  nào. Người nào không cảm thấy được cái đó thì không thể kinh  doanh được. Nhưng nếu có sẵn cái mẫn cảm ấy, dù là mơ hồ, yếu  ớt, thì cũng có thể luyện nó từ lúc còn được - tức là ở cái tuổi mà  tinh thần rất dễ uốn nắn - và dần dần làm cho nó phát triển mạnh  mẽ, tới khi nó thành như bản tính thứ nhì của mình.
Thanh niên nào chịu khó cải thiện khả năng đó trong mọi cơ  hội, chú ý quan sát thu nhận thông tin để nâng cao óc phán đoán,  nhận định của mình thì thế nào cũng tiến bộ trên con đường kinh  doanh.
2 - Nhưng một thanh niên dù đã có tài nhận định đúng giá  trị của mọi vật rồi, mà không biết tính toán, quản lí tài chính thì  cũng có thể đi tới sự sụp đổ trước khi tài năng của mình đem lại  kết quả.
Muốn chinh phục thương trường thì phải biết tính xem lãi  hay lỗ, và có thấy lãi thì mới bắt đầu xông pha.
Rất nhiều người mất thì giờ dự tính những số lãi về sau này,  những số lãi không khi nào tới hoặc có tới thì tới tay người khác.
Điều quan trọng nhất là đừng bỏ dở một công việc làm ăn  nào khi chưa hoàn toàn thành công. Biết điều khiển cho khéo một  công việc nhỏ thôi cũng là có đủ tư cách để thắng những trở ngại  sau này sẽ gặp trong những việc kinh doanh lớn hơn rồi.
Thường thường người ta nhận thấy rằng những người tạo  được những gia sản lớn đều luôn luôn chuyên vào một ngành.
Đừng có thói no bụng đói con mắt. Cần nhớ nguyên tắc chính  yếu đó. Nhiều thanh niên có tương lai rực rỡ mà vấp té chỉ vì  không theo nguyên tắc rất giản dị đó.
Vì tham lam người ta dễ đâm bổ vào những cuộc kinh doanh  lớn lao trong khi người ta chưa sẵn sàng, thiếu phương tiện, thiếu  kinh nghiệm.
Tập nhận định đúng giá trị của sự vật, biết tính toán, quản lí  tài chính, biết đọc ý nghĩ của người khác; đó, phải luyện cho thành  thục, hoàn hảo những khả năng đó đã rồi mới dùng nó vào những  công việc kinh doanh lớn được. Những khả năng đó chỉ là ba hình  thức của điều kiện quan trọng nhất: biết phán đoán cho đúng, mà  hễ phán đoán đúng, tức thị là thành công.
Vì vậy điều quan trọng và khó khăn là gây được số vốn đầu  tiên là một triệu đồng. Có được triệu đầu tiên rồi thì dễ kiếm được  những triệu sau lắm. Triệu đầu tiên đó định rõ tư cách của ta và  bảo đảm cho sự thành công của ta.
Phải dùng sức mạnh và tuổi trẻ của ta vào cuộc chiến đấu  đầu tiên đó. Người nào muốn thành nhà đại doanh nghiệp thì phải  dồn hết tâm tư vào cuộc chiến đấu đó, phải cảm xúc mãnh liệt tới  tận đáy lòng như một nghệ sĩ hoài bão nghệ phẩm của mình vậy.
Có được một triệu đồng trong túi rồi, người ta tiến trên  đường đời với vẻ ung dung tự tại hơn, thấy công việc làm ăn nào  cũng vừa với sức của ta. Người ta tự tin, có thể phác hoạ những  nét lớn của chương trình vì đã quen thuộc với các chi tiết rồi. Nắm  vững được thuật đó thì không có gì ngăn cản nổi bước tiến của ta  nữa. Cuộc đời làm ăn của các nhà đại kinh doanh đều như vậy hết.
Tuy nhiên, một người áp dụng những quy tắc đó mà tạo dựng  nên một gia sản nào đó vẫn có thể không hoàn toàn thành công và  tìm đưọc hạnh phúc. Có thể người đó không nhận ra rằng những đức trong buổi gây dựng sự nghiệp không phải là những đức cần  cho ta một khi đã thành công. Khi đã thành công thì không cần  tinh thần mạo hiểm nữa mà cần nhận định được trách nhiệm xã  hội của mình.
Tiền bạc đào tạo tư cách của ta vì phải chịu cực chịu khổ,  phải chiến đấu mới kiếm được nó. Nó là thước đo tư cách và tinh  thần con người. Trong thế giới hiện đại, người có nhiều tiền thường  là người có tinh thần phán đoán, quyết định nhanh nhạy.
Tại sao vậy? Tại phải tranh đua gay go, người đông mà của  hiếm.
Không kể các bậc thiên tài - vì mỗi thế kỷ chỉ có một, hai  hoặc ba vị tài ba rực rỡ - cứ xét hạng người thường như chúng ta  thôi, thì muốn tự tạo được một địa vị rất danh giá trên chính  trường, không cần nhiều đức quý bằng muốn thành công trong  ngành kĩ nghệ và tài chính. Không một chính khách nào công  nhận điều này, mặc dầu nó rất đúng.
Một số người có tài làm cho người khác chăm chú nghe mình.  Thành công trong đám đông, biết bàn bạc công việc, lời lẽ hùng  hồn, khéo léo, nhưng không thể đem thực hành những ý kiến của  mình được vì thiếu ý thức về sự hành động. Họ thành công trong  công việc quản lí chứ không thành công trong việc kinh doanh.
Lại có trường hợp ngược lại. Ta thường thấy trong phòng  giấy có những người không thể trình bày khéo léo một vấn đề. Bắt  họ trình bày thì họ vụng về, nói năng khó khăn, lúng túng. Nhưng  đặt họ vào một địa vị cần hành động thì họ trổ tài liền. Họ chiến  đấu với vấn đề và chứng minh rằng gặp lúc khủng hoảng, ta có thể  tin cậy ở họ được. Trong công việc kinh doanh, một người hoạt  động phụ lực ta còn mạnh hơn cả một đám kẻ mồm mép.
Trên những thị trường lớn của thế giới, cuộc chiến đấu thật  gay go, đường gươm lưỡi kiếm thật lợi hại; người ta phải quay lưng  vào vực thẳm mà chống đỡ, thua thì tiêu tan sự nghiệp và cả danh  dự nữa. Thanh niên nào đã bước vào đấu trường đó phải cố tự lực  mà thắng, đừng trông mong một ân huệ nào cả. Nhưng tuổi thanh  xuân có thể thắng được lắm. Vì đầu óc còn dễ uốn nắn nên họ có  thể cương quyết luyện khả năng phán đoán bằng cách rút bài học  từ kinh nghiệm.
Cho nên tôi muốn khuyên thanh niên ngày nay rằng, theo ý  tôi, tiền bạc chỉ là kết quả của chí cương quyết và óc thông minh  khéo áp dụng vào công việc làm ăn. Định mệnh không thể ngăn  cản bước đường của một người có tinh thần quả cảm.

02: Tay Trắng Làm Nên

Chương 3
COI CHỪNG CÁC THÀNH KIẾN !
Trong thế giới hiện đại, muốn thành công lâu bền thì phải  biết sống điều độ. Các nhà hoạt động đều biết rằng hi sinh sức  khoẻ tức là hi sinh tuổi thọ của mình, mà mỗi năm có một giá trị  lớn trong đời sống của ta. Cho nên họ biết tự vệ, không để kẻ thù  tấn công.
Sự can đảm về tinh thần một phần do trí óc mà một phần  cũng do bao tử. Thiếu sự can đảm đó, nhà kinh doanh chỉ là hạng  rất tầm thường. Cho nên sự điều độ là một trong những bí quyết  để thành công.
Trước hết, tôi nhiệt liệt khuyên những thanh niên có cao  vọng nên ít uống rượu. Tôi không muốn rằng luật pháp quy định  phong tục, nhưng điều tôi nói đây không phải vô căn cứ đâu;  không một người nào có thể thành công lớn được nếu mang cái tật  rượu chè be bét; nhưng một nhà kinh doanh mà gia nhập hội  chống uống rượu thì cũng khó thành công được.
Xã hội hiện đại phức tạp buộc chúng ta phải biết điều độ.  Khoa học tiên tiến đem lại những điều kiện sống với nhiều phương  tiện dành cho con người. Chúng ta không thể từ chối những tiện  nghi đó.
Con người vừa làm chủ vừa là nô lệ những máy móc mình  dùng như điện tín, điện thoại, máy ghi âm. Trong cảnh ồn ào bất  tận ở nơi làm việc, muốn giữ cho sự phán đoán được sáng suốt,  thần kinh được thăng bằng, tinh thần được thảnh thơi thì phải  biết tự chủ, nghĩa là tự kiểm soát được mình và sống có điều độ.  Đó là cái giá mà ta phải trả cho khoa học.
Tôi cũng tha thiết xin thanh niên phải kiểm soát và điều tiết  thái độ, cử chỉ, ngôn ngữ và công việc của mình nữa. Nhất là phải  tránh thái độ ngạo mạn vênh váo.
Thái độ đó phát sinh ra sao? Ban đầu, một thanh niên nhờ  hoạt động mà bắt đầu có địa vị trong xã hội rồi có vẻ coi thường  những người khác. Thế là đã khởi sự xuống một cái dốc nguy hiểm  rồi đấy.
Thái độ đó không phải là thói tự đắc, vì tự đắc là tự đánh giá  một cách đúng hay sai quyền hành cùng trách nhiệm của mình;  cũng không phải là thói tự đại, tự phụ vì tự đại tự phụ là tự cho  mình những đức mà mình không có.
Thái độ ngạo mạn, vênh váo còn nguy hiểm hơn những tật đó  nhiều. Nó là cảm giác cho rằng chỉ mình mới có tài năng, còn  chung quanh toàn là những kẻ ngu ngốc, vậy thì chỉ cần làm theo  ý mình, bất tất phải quan tâm tới quyền lợi, cảm xúc của kẻ khác:  họ buồn, giận, mủi lòng cũng mặc họ.
Hồi trẻ ta thành công mà chỉ làm thương tổn lòng tự ái của  một người thôi, thì tới tuổi xế bóng ta sẽ có cả trăm kẻ thù bất  động đái thiên với ta đấy.
Họ sẽ đem những lỗi nhỏ lỗi lớn của ta, từ những lỗi thiếu tế  nhị, giám thức, lỗi quen áp chế, tới lỗi diệt thần tượng cũ để dựng  thần tượng mới, mà tấn công ta.
Trong lúc hăng hái tranh đấu cho công việc làm ăn, ta không  để ý tới những cái đó, cũng như trên chiến trường, hăng tiết chém  giết nhau, người ta không để ý tới vết thương của địch. Nhưng rồi  kẻ bại trận nhớ lại hết và uất hận ngấm ngầm về thái độ ngạo  mạn của kẻ đã thắng mình.
Nhiều năm trôi qua, khi mà có vẻ như mọi sự đều đã rơi vào  lãng quên, chính kẻ thắng cũng chỉ còn lờ mờ nhớ những chuyện  trước kia, thì thình lình bị một kẻ mình tưởng là thân thiện với  mình, đập mình một cách bất ngờ.
Như bị kẻ ném đá sau lưng, người đó lảo đảo, la lên: “Tại sao  hắn bỗng xuất hiện từ bóng tối để đánh tôi? Tôi có làm gì hắn  đâu?” Rồi cố tìm trong dĩ vãng, mới sực nhớ ra rằng, đã từ lâu lắm  mình có lần tỏ ra ngạo mạn - lúc trẻ mình tự cho là có quyền như  vậy - và bây giờ, về già, phải trả giá cho những lỗi lẫm của mình  hồi trẻ.
Một số thành kiến cũng là dấu hiệu của tinh thần thiếu điều  độ.
Thói có thành kiến còn tai hại hơn thói ngạo mạn, vì thói  ngạo mạn chỉ xuất hiện sau khi mình đã thành công ít nhiều rồi,  và như vậy còn có chút lí do, chứ thói có thành kiến thì chẳng đợi khi đã thành công rồi mới có. Thói quen thành kiến cơ hồ như do  di truyền, do lây những người chung quanh mà ta mắc cái tật đó  nặng từ hồi nhỏ; muốn diệt được nó phải trải đời và nhận định cho  đúng rồi cương quyết tự cải.
Vì vậy óc thành kiến là một tật rất lớn. ảnh hưởng của nó  còn tai hại hơn tất cả những tật khác nữa.
Nó có tính cách phá hoại óc phán đoán của ta, làm cho óc ta  hóa hẹp hòi. Diệt được nó thì cũng như gỡ được một cái gông cùm  ghê gớm cho tâm hồn ta.
Không diệt được nó thì nó có thể mỗi ngày mỗi cứng mạnh  lên và biến thành tật bướng bỉnh mà không có gì nguy hiểm bằng  định kiến. Không có gì ngốc bằng tuyên bố: “Ông muốn nói gì cứ  nói, ý tôi đã định, không bao giờ tôi đổi ý đâu”. Thường thường  người ta đưa lí lẽ đó ra để che đậy một sự thất bại rõ rệt của mình.
Con người bướng bỉnh đâu có nhìn thấy được sự thực. Họ  không để ý tới biến cố, lịch sử, thời đại, không để ý tới người ngoài  đường. Con người có định kiến luôn luôn chỉ dùng mỗi một tiêu  chuẩn để xét tất cả những biến chuyển trên thế giới, hoàn cảnh  trong vũ trụ.
Người nào thành công thì không có định kiến, mà biết tuỳ  theo cảnh, sửa đổi ý kiến của mình, nhờ có một lương thức luôn  luôn tỉnh táo.

Chương 4
LÀM SAO TRỪ ĐƯỢC TÍNH SỢ SỆT
Không có đức can đảm, thì không ai có thể đi xa trên con  đường thành công được.
ở đây tôi không muốn nói tới sự can đảm về thể chất của các  dũng sĩ trên chiến trường, mà tôi muốn nói về một đức hiếm có  hơn, đức can đảm về tinh thần.
Đức này khác hẳn tính bướng bỉnh, cố chấp vì bướng bỉnh, cố  chấp nhiều khi chỉ là hình thức của thói hèn nhát. Biết bao sự nhu  nhược do thói bướng bỉnh mà ra.
Có những kẻ cố bám một cách tuyệt vọng vào một công việc  làm ăn nào đó với hi vọng điên cuồng rằng, nhờ Trời Phật phù hộ,  thất bại sẽ đột nhiên chuyển thành thắng lợi. Họ hi vọng hão  huyền sẽ có những ngày tươi đẹp hơn, mà chính trí óc họ bảo họ  rằng những ngày đó không khi nào tới đâu.
Thái độ đó không phải là can đảm, cũng không phải là bướng  bỉnh; nói thẳng ra, nó là thái độ ngu xuẩn. Khi lí trí ra lệnh cho ta  bỏ một trận tuyến nào đi để bắt đầu lại một vị trí khác, mà ta cứ  ương ngạnh không chịu nghe thì không phải là ta có tinh thần can  đảm mà chính là ta nhút nhát về trí tuệ đó.
Không thể tách rời sự can đảm và lương thức được.  Nhưng một mặt khác, quá mau mắn chịu dung hòa, cũng có thể là nhút nhát đấy. Một người có tinh thần đó cho rằng có ít mà  chắc chắn còn hơn là mạo hiểm để có nhiều.
Muốn thành công trong sự thương lượng các việc làm ăn lớn  thì phải biết theo dõi cho hợp lúc sự biến chuyển của mọi việc, sự  thay đổi của tình hình cùng quan điểm mỗi người, bạn cũng như  thù. Muốn làm ăn lớn, phải tránh xa những quan điểm cứng ngắc  của hạng người giữ đúng chủ nghĩa, nguyên tắc. óc ta phải khoáng  đạt, uyển chuyển, dễ tiếp thu những quan điểm mới, những ý kiến  khác ta.
Nhưng đức đó của nhà kinh doanh, một đức hợp với tính tình  của nghệ sĩ, có thể biến tướng mà thành nhu thuận, ai bảo sao  nghe vậy.
Lúc đó ta sẽ hóa ra nhu nhược, không bao giờ dám chiến đấu  nữa, luôn luôn tìm cách thỏa thuận với đối phương để lượm những  miếng vụn, đồ thừa người ta thí cho.
Mỗi khi qua một giai đoạn mới trong công việc làm ăn thì  thấy con đường mòn dễ đi vẫn thích thú hơn, mà con đường leo  sườn đồi gồ ghề hơn, khó đi hơn. Nếu ta cứ theo thói quen, lựa con  đường dễ đi thì óc ta không tiến mà tinh thần ta suy dần.
Có một lần tôi phải khó khăn lựa chọn: một là giữ vững cái  thế của tôi, hai là dung hòa. Hồi đó tôi còn trẻ và phải thành lập  công ty ximăng Canađa. Người muốn bán lại một cơ sở cho công ty  đòi một giá quá cao. Rõ ràng là ông ta ra giá quá cao như vậy chỉ  để có đủ tiền trả nợ thôi.
Viên chủ tịch giám đốc cơ sở giao thiệp với các nhóm tài  chính có thế lực nhất ở Canađa. Một thanh niên như tôi hồi đó mà  được lòng các ông bự ấy thì mau phát lắm, trái lại nếu bị các ông  đó ghét, thì sự nghiệp nhỏ nhoi của tôi sẽ sụp đổ liền. Mua theo cái  giá cao đó, không có hại lớn gì cho tôi cả, nhưng có hại cho người có  phần hùn trong công ty.
Nhận bao giờ cũng dễ dàng hơn từ chối. Nhất là người ta  dùng mọi áp lực để buộc tôi phải mua lại cơ sở với giá người ta đưa  ra.
Tôi từ chối. Tức thì kẻ thù của tôi dùng mọi phương tiện  mạnh mẽ vô cùng để gây ảnh hưởng xấu tới dư luận mà tấn công  tôi. Họ điều khiển chiến dịch rất khéo léo. Trước kia họ cố thuyết  phục tôi để tôi lừa gạt những người có phần hùn thì bây giờ lại  chính họ xúi giục những người có phần hùn đó tố cáo, mạt sát tôi  là đã thành lập một công ty tổ hợp.
Bây giờ tôi già rồi, có thể thú thực rằng hồi trẻ bị tấn công  một cách bất công như vậy tôi đau xót lắm. Nhưng tôi không ân  hận gì cả. Tại sao? Tại nhờ những lời chỉ trích đầu tiên tàn nhẫn  đó mà tôi hiểu đời hơn và về sau, giữ được một thái độ hoàn toàn  thản nhiên trước mọi sự tấn công độc địa.
Lại thêm, chút tia sáng le lói ở trong óc tôi cho tôi hiểu rằng  nếu lần đó tôi đã chịu nhường trước áp lực của họ thì tôi sẽ có cảm giác là chịu đầu hàng về tinh thần mà sức mạnh hoạt động của tôi  trong việc kinh doanh chắc chắn thế nào cũng giảm sút. Tôi sẽ do  thói quen mà thành thông thạo chứ không dùng lí trí nữa và sẽ  mất hết nghị lực tinh thần, vì chỉ có chiến đấu mới có được nghị  lực.
Người thanh niên nào bước vào lĩnh vực kinh doanh cũng sẽ  có lúc gặp cuộc khủng hoảng như vậy, nó làm cho nghề của mình  nghiêng về phía này hay phía khác, làm cho thuật thương thuyết  từ trước của mình đổi mới hẳn.
Bạn sẽ hỏi tôi: “Nhưng tôi không hiểu ý ông muốn khuyên tôi  điều gì. Ông bảo tôi phải có chừng, đừng quá cương quyết, cố chấp  rồi đồng thời ông lại nhắc tôi đừng có thái độ thỏa hiệp, thế là  nghĩa làm sao?”
Đó là câu hỏi từ xưa người ta vẫn thường đặt ra: làm sao có  thể dung hòa thái độ cương quyết và thái độ thích ứng với hoàn  cảnh. Chỉ có mỗi một cách trả lời là phải luyện cả hai đức đó. Phải  hành động tuỳ theo hoàn cảnh chung quanh mà vẫn trung thực  với chính mình, cố giữ đường lối của mình.
Có gặp một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đặc biệt mới  phải đương đầu với sự thử thách chủ yếu đó. Lúc đó phải xét kĩ  vấn đề tuỳ theo sự quan trọng của nó, và quyết định của ta sẽ ảnh  hưởng tới tương lai trong nghề của ta.
Nhưng tôi nghĩ cần khuyên bạn ở đây một lời thực tế. Đừng  nóng nảy, đừng doạ dẫm; trong việc kinh doanh, đừng bao giờ có  thái độ ấy.
Người nào làm ăn lớn thì thế nào cũng có lúc gặp một tình  trạng bối rối. Lúc đó cần nhất là phải can đảm về tinh thần. Hễ  đại đởm thì sẽ có cái đà để tăng năng lực của mình lên và làm  giảm năng lực của những kẻ cạnh tranh với mình.
Bạn có thể chắc chắn rằng trong đời làm ăn, bạn sẽ nhiều lần  gặp cảnh bối rối về tài chính. Chúng ta ở trong một thời kinh tế đã  thịnh vượng và phát triển từ lâu, thế nào rồi cũng thay đổi, sẽ tới  hồi kinh tế suy sụp làm điên đảo giới kinh doanh.
Muốn đương đầu với một cuộc khủng hoảng như vậy, trước  hết phải xét kĩ mọi sự kiện rồi để ý tới những sự thẩm định sai  lầm của người khác. Trong các trường hợp đặc biệt, người nào có  trí óc uyển chuyển, lanh lợi sẽ không lúng túng vì biết tạo ra những khí giới và phương tiện để thích ứng với mọi giai đoạn của  tình thế.
Người khôn, biết quyền biến, gặp một tình thế bất thường thì  hành động một cách bất thường.
Nhưng xét cho kĩ thì những thời khủng hoảng ít khi xảy ra  lắm. Cái nguy cơ thường xuyên chính là những cuộc khủng hoảng  tinh thần của chính ta.
Nếu ta không biết nhìn vào phía sau cái vẻ mặt bề ngoài của  người khác trong khi họ làm việc thì không làm sao ta hiểu được  tại sao có nhiều người thao thức suốt đêm, lo sợ những tai nạn  tưởng tượng có lẽ không bao giờ xảy ra.
Những người đó không biết giữ sự bình tĩnh, họ thiếu một  thứ can đảm nào đó thành thử bị óc tưởng tượng của chính mình  quấy phá.
Chính hạng người đó vội vàng bán tháo những món rất tốt vì  họ không đủ can đảm để giữ giá, thành thử làm lợi cho người mua.  Người mua không đáng trách mà người bán thì đáng thương.  Người nào đó can đảm hành động theo óc lí luận của mình thì nhất  định sẽ thắng.
Làm sao trừ được trong óc ta cái sợ sệt không có đối tượng -  cái sợ sệt một phần ở tiềm thức, một phần ở ý thức - day dứt ta đó?
Chỉ có cách cố ý gắng sức dùng nghị lực và trí tuệ mới diệt  được nó.
Tôi chỉ có thể mách bạn được một phương thuốc. Khi hiện tại  làm cho bạn lo âu, thì bạn nhớ lại những lúc lo lắng nhất đã qua.  Như vậy, óc bạn không phải chỉ bị một nỗi sợ sệt mà bị tới hai nỗi  sợ sệt xâm chiếm, mà nỗi sợ sệt hồi trước mạnh hơn sẽ lấn nỗi sợ  sệt hiện nay.
Bạn sẽ tự phụ: “Không có gì ghê gớm hơn cuộc khủng hoảng  thời đó mà mình cũng đã thắng nổi và chẳng làm sao cả. Vậy thì  có lí gì mình không vượt nổi tình thế hiện nay, kém gay go, kém  nguy hiểm hơn xưa nhiều”.
Nhờ cách đó mà ta rèn được một nghị lực thắng nổi mọi trở  ngại.
Người nào chống được những cuộc khủng hoảng nội tâm đó  sẽ không còn ngại gì dông tố ở ngoài đời.
Người can đảm không bỏ lỡ một cơ hội nào cả. Đức can đảm  cũng như tài trí, có thể phát triển tới cực độ nếu cơ thể ta khoẻ  mạnh.
Tôi đã nói rằng sự can đảm về tinh thần hiếm hơn sự can  đảm về thể chất. Nó quá hiếm, cực kỳ hiếm nữa. Người có can đảm  giữ vững ý kiến của mình là một biệt lệ chứ không phải là một  thông lệ.
Người ta thường cho rằng tính táo bạo, dám đưa ra một lời  phán đoán dứt khoát, thường làm hại cho ta, ta nên nịnh hót, a  dua, chiều đời, nếu thấy ý kiến của mình không được người khác  tha thứ, chấp nhận thì, đừng tuyên bố ra, như vậy có lợi hơn.
Lời đó có đúng không?
Tôi sẽ trả lời dứt khoát rằng thà chịu nghèo còn hơn là thành  công mà mất tư cách con người.
Tôi không chấp nhận rằng tinh thần nô lệ, ti tiện cần thiết  trong công việc kinh doanh. Không bao giờ nó đưa tới một sự  thành công thực sự cả.
Cương quyết nhưng không ương ngạnh, vui tính nhưng  không kỳ khôi, mềm mỏng nhưng không nhu nhược, có tinh thần  kinh doanh nhưng không hấp tấp, lộn xộn, đó là những đức nó cứu  ta khi gặp vận rủi.