Home » » Âm phủ - kỳ 10

Âm phủ - kỳ 10

 Vậy thì hắn đã biến vào cái cõi âm ty nào? Tiến sĩ Burrows thắc mắc khi quay lại nhìn ngược lên con hẻm, nhìn ra con đường, nơi một chiếc xe hơi vừa vụt thoáng qua.
Bên phải của ông, bức tường vườn rau có một cái giàn cho dây leo cao khoảng một mét chạy dài suốt bức tường, như vậy gã đàn ông kia hầu như không thể nào leo bức tường này được. Bức tường đối diện thì không có chướng ngại vật tương tự, nên tiến sĩ Burrows trèo lên để dòm qua bên kia. Đó là một khu vườn trơ trụi và nhếch nhác, lèo tèo vài bụi cây xơ xác và một miếng đất lầy lội ở chỗ lẽ ra là một bãi cỏ. Cảnh này được điểm xuyết bằng mấy cái đĩa nhựa xỉn màu chứa nước xanh lè.
Tiến sĩ Burrows chăm chú nhìn một cách bất lực mảnh đất riêng bỏ hoang. Ông suýt quên phứt toàn bộ câu chuyện này cho rồi thì bỗng nghe tim mình thắt lại. Ông vung cái cặp qua bức tường và ì ạch trèo lên. Ông nhảy xuống, ê ẩm hơn là ông tưởng, vì ông rớt xuống một bãi sình trong tư thế ngồi. Ông cố đứng dậy, nhưng giầy của ông mất chỗ tựa nên ông lại ngồi bệt xuống, bàn tay vươn ra của ông loay hoay quơ trúng một trong mấy cái đĩa, khiến cho chất nước xanh lè bên trong bắn tung tóe lên cánh tay và đầu cổ của ông. Ông chửi thầm, ráng phủi cho sạch, rồi gượng đứng lên một phen nữa, chúi ngã, loạng choạng như một người say, rồi mới lấy lại được thăng bằng.
- Khỉ! Khỉ! Khỉ thiệt!
Ông nghiến răng lầu bầu, vừa lúc có tiếng cửa mở phía sau lưng ông. Một giọng nói e dè hỏi:
- Chào? Ai đấy? Có chuyện gì thế?
Tiến sĩ Burrows xoay người lại đối diện một bà già đứng cách ông chừng hai thước, chung quanh chân bà là ba con mèo đang lom lom nhìn ông bằng ánh mắt thờ ơ nham hiểm.
Bà già có lẽ không nhìn được rõ lắm, căn cứ theo cách bà ngúc ngoắc cái đầu. Tóc bà trắng như cước, khoác một cái áo hoa mặc trong nhà. Tiến sĩ Burrows đoán bà già ít nhất trên tám chục tuổi.
Không thể nghĩ ra được cớ gì để giải thích tại sao hay làm cách nào mà ông lại có mặt ở đó, tiến sĩ Burrows nói:
- Ơ... Roger Burrows, hân hạnh được gặp bà.
Nét mặt của bà già bỗng nhiên thay đổi.
- Ôi, tiến sĩ Burrows, ông ghé qua đây quả là tử tế. Đúng là một ngạc nhiên thú vị.
Bản thân tiến sĩ Burrows cũng ngạc nhiên, và không phải không bối rối:
- Vâng... Ơ... À, tôi tình cờ đi ngang qua đây.
- Ông quả là lịch sự. Thời nay hiếm gặp người lịch sự như thế. Ông đến thăm thật quý hóa.
Ông ngập ngừng đáp lại:
- Ơ... không có chi. Tôi rất vui mừng.
- Chẳng là hơi neo đơn, chỉ có mấy con mèo để hủ hỉ. Ông vào nhà uống trà nhé? Ấm nước đang sôi.
Tiến sĩ Burrows còn đang lưỡng lự – ông đã nhắm trước chuyện sẽ phải nhanh chóng vọt qua bức tường đào tẩu khi nhác thấy bà già. Sự tiếp đón nồng hậu và hiếu khách này thật là ngoài sự mong đợi. Không biết nói sao, ông chỉ gật đầu rồi bước tới trước, giầy của ông lại giẫm phải một cái đĩa khác, làm văng nước bên trong đĩa lên ống quần của ông. Ông dừng bước để gỡ một cục rêu nhớt dính vào vớ.
Bà già nói:
- Ôi, tiến sĩ Burrows, cẩn thận nhé. Tôi đặt mấy đĩa đó cho chim ấy mà.
Bà quay đi, đám mèo tùy tùng phóng vọt vô bếp trước.
- Sữa hay đường?
- Vâng.
Tiến sĩ Burrows nói, vẫn đứng bên ngoài cửa nhà bếp trong khi bà già lăng xăng quanh bếp, lấy ấm trà trên kệ xuống.
- Tôi xin lỗi là đã đến mà không báo trước như vầy.
Tiến sĩ Burrows nói trong nỗ lực khỏa lấp sự im lặng.
- Bà thiệt là tử tế.
- Ấy chớ, ông mới là người tử tế. Tôi phải cám ơn ông.
- Sao vậy?
Ông phát cà lăm, vẫn còn bấn loạn tìm cách biết được chính xác bà già này là ai.
- Vì lá thư rất lịch sự của ông đấy. Bây giờ tôi đọc không được rõ như xưa nữa, nhưng ông Embers đọc dùm.
Bỗng nhiên đâu đó rõ như ban ngày và tiến sĩ Burrows thở phào nhẹ nhõm, màn sương mù mờ được làn gió mát hiểu ra thổi tan biến.
- Trái cầu phát sáng! Thưa bà Tantrumi, cái đó chắc chắn là một mẫu vật đáng tò mò.
- A, hay thế cơ?
- Có lẽ ông Embers đã nói với bà là nó cần được kiểm tra.
Bà nói:
- Vâng. Chúng ta không muốn mọi người đều bị radio điều khiển, nhỉ?
- Không ạ.
Tiến sĩ Burrows tán đồng, cố gắng không mỉm cười.
- Chẳng được việc lắm. Bà Tantrumi à, lý do tôi ghé qua là...
Bà già nghiêng đầu sang một bên, hồi hộp chờ ông nói tiếp trong khi tay vẫn khuấy trà. Ông đành nói nốt:
- ... À, tôi mong bà có thể chỉ cho tôi chỗ bà đã tìm ra nó.
- Ấy không, nào phải tôi – chính là những người thợ gas ấy. Bánh bông lan hay kem trứng?
Bà nói, vừa đưa ra một hộp thiếc méo mó đựng bánh.
- Ơ... xin bánh bông lan ạ. Bà nói là mấy người thợ gas tìm ra nó à?
- Chính họ đấy. Ngay bên trong tầng hầm.
- Dưới đó?
Tiến sĩ Burrows hỏi, nhìn về phía cánh cửa mở ở dưới chân của một cái cầu thang ngắn.
- Bà cho phép tôi ngó qua một cái được không?
Ông nhét cái bánh bông lan vô túi áo khoác vì phải đối phó với mấy bậc cầu thang bằng gạch mốc rêu. 

 Khi đã bước qua ngưỡng cửa tiến sĩ Burrows có thể thấy tầng hầm được chia làm hai phòng. Phòng đầu tiên để trống, chỉ có mấy cái đĩa đựng đồ ăn cực kỳ đen và khô cho mèo, dây thun rơi vãi khắp sàn. Ông bước qua phòng thứ hai, nằm dưới phần trước của căn nhà.
Nó gần giống như phòng thứ nhất, ngoại trừ ánh sáng trong phòng này kém hơn và có thêm một số bàn ghế. Khi đảo mắt nhìn quanh ông thấy một cái dương cầm dựng đứng ở một góc, coi bộ sắp rã rời từng mảnh vì ẩm mục, và khuất trong góc tối là một tủ quần áo có mặt gương bể. Ông mở cánh cửa tủ ra và đứng lặng.
Ông hít hửi nhiều lần, nhận ra cùng một mùi ẩm mốc mà ông đã ngửi thấy ở gã đàn ông đụng phải trên đường và ở ống thông gió trong ngôi nhà của Penny Hanson. Khi mắt ông đã quen với bóng tối ông có thể thấy bên trong tủ có nhiều chiếc áo khoác – theo như ông có thể phân biệt thì chúng đều màu đen – và khá nhiều những chiếc mũ kết dẹp và nhiều thứ đội đầu khác nhau chất chồng trong một ngăn tủ ở một bên.
Điều đáng chú ý là bên trong tủ quần áo không có vẻ lộm cộm như mọi thứ chung quanh, cái nào cũng bị phủ một lớp bụi dày. Hơn nữa, khi ông xê dịch nó ra khỏi tường để coi có cái gì sau lưng tủ không thì cái tủ hóa ra là còn tốt một cách lạ lùng. Không kiếm ra gì cả phía sau tủ, ông hướng sự chú ý trở vào bên trong tủ. Bên dưới ngăn đựng mũ ông tìm thấy một ngăn kéo nhỏ hé mở. Bên trong có năm hay sáu cặp kính. Cầm một cặp kính và lấy một cái áo khoác ra khỏi móc treo áo, ông đi trở lên khu vườn.
Từ dưới chân cầu thang ông gọi:
- Bà Tantrumi ơi!
Bà già đủng đỉnh đi tới cửa nhà bếp.
- Bà có biết là trong tủ áo dưới tầng hầm còn có vài thứ đồ đạc không?
- Thế ư?
- Vâng, một số áo khoác và kính râm. Có phải của bà không?
- Không, tôi ít khi nào đi xuống dưới. Nền mấp mô quá. Ông có thể đem chúng lại gần hơn để tôi nhìn thử xem.
Ông đi lại gần cửa bếp. Bà đưa tay ra để lướt mấy ngón tay vào lớp vải áo khoác như thể bà đang vuốt ve cái đầu của một con mèo thân quen. Cảm giác dày và bóng, bà thấy cái áo khoác này thật lạ lẫm. Kiểu ráp áo đã xưa với một miếng đắp vai bằng chất liệu vải còn dày hơn nữa. Bà nói cho qua chuyện rồi quay lại nhà bếp:
- Tôi không thể nói là trước đây tôi đã từng thấy cái này. Có thể là chồng tôi, Chúa phù hộ linh hồn ông ấy, đã bỏ chúng dưới đó.
Tiến sĩ Burrows xem xét kỹ cặp kính râm. Nó gồm hai miếng kính dày và phẳng lì, hầu như bằng thủy tinh đục, tương tự kính bảo hộ của thợ hàn, với những lò xo tinh xảo kỳ lạ ở hai bên gọng kính, rõ ràng để giữ kính bám gọn vào đầu người đeo. Ông đâm ra thắc mắc. Tại sao những người lạ cất giữ đồ đạc riêng trong một cái tủ quần áo hết xài trong một tầng hầm bỏ trống?
- Có ai đến đây không bà Tantrumi?
Tiến sĩ Burrows hỏi trong lúc bà rót trà bằng bàn tay run lẩy bẩy, cái vòi ấm trà chạm lanh canh vào miệng cái tách dữ dội đến nỗi ông tưởng bà sắp hất luôn cái tách ra khỏi cái đĩa. Tiếng lanh canh tạm ngưng khi bà tỏ ra bối rối. Bà nói, như thể tiến sĩ Burrows vừa giả định rằng bà làm điều gì đó không được đứng đắn lắm.
- Tôi thật tình không hiểu ông ngụ ý gì?
- Chẳng qua là vì tôi vừa thấy vài nhân vật kỳ quái lẩn quẩn quanh khu phố này – luôn mặc áo khoác to và đeo kính râm, giống những thứ này...
Bà già lộ vẻ lo lắng khiến tiến sĩ Burrows ấp úng.
- Ôi, tôi mong những người đó không phải là hạng tội phạm người ta hay nghe nói. Tôi chẳng còn thấy an ninh ở đây nữa – Tuy là ông Oscar bạn tôi rất tử tế. Hầu như chiều nào ông cũng đến thăm tôi. Ông thấy đó, tôi chẳng còn ai là thân thích nữa, chẳng còn gia đình. Con trai tôi đã đi Mỹ, ông biết đấy. Nó là đứa con trai giỏi giang. Công ty nó làm việc đã đưa nó và vợ nó đi...
- Vậy là bà chưa từng gặp những người mặc áo khoác như vầy – những người đàn ông tóc trắng?
- À, không hề, không thể hiểu là ông đang nói về cái gì.
Bà già nhìn ông dò hỏi, rồi tiếp tục rót trà.
- Mời ông vào và ngồi chơi.
- Tôi cất những thứ này đã.
Tiến sĩ Burrows nói rồi quay trở xuống tầng hầm. Trước khi rời khỏi tầng hầm ông không thể đừng kiểm tra nhanh cái dương cầm, nhấc cái nắp đàn lên, ấn thử vài phím, gây nên vài âm thanh từng tưng rè rè và hoàn toàn lạc tông. Ông thử kéo nó ra khỏi tường, nhưng nó kêu rít lên và dọa rã ra từng mảnh, nên ông dừng tay lại.
Sau đó ông đi vòng quanh cả hai căn phòng dưới tầng hầm, giẫm giẫm chân xuống nền hầm, hy vọng phát hiện ra một cái cửa sập. Ông cũng làm vậy trong khu vườn nhỏ, giẫm giẫm chân quanh bãi cỏ đồng thời tránh giẫm lên mấy cái đĩa nhựa, và luôn tò mò để mắt đến chiếc xe hơi của bà Tantrumi.

Ở đầu kia của thành phố, Chester và Will đã trở lại đường hầm trong khu Bốn chục Hố. "Ba mày nói sao? Ổng cho là tụi mình đã tìm được cái gì?" Chester hỏi trong lúc Will dùng một cái vồ và một cái dùi để khượi ra lớp hồ giữa những viên gạch của cái cấu trúc chưa xác định được.
- Cha con tao đã coi lại mấy tấm bản đồ và thấy không có gì trên đó.
Will nói dối vì hồi tối nó đi ngủ trước khi tiến sĩ Burrows ra khỏi tầng hầm, và trước khi Will thức dậy vào buổi sáng thì ông đã ra khỏi nhà.
- Không có ống cấp nước hay cống tháo nước hay bất cứ cái gì trong khu vực này.
Will nói tiếp, cố gắng thuyết phục Chester.
- Mày biết không, gạch xây rất chắc – cái này xây để đời.
Will đã gỡ ra được hai lớp gạch, nhưng vẫn chưa đục thủng tường. Will nói, ra sức gấp đôi đục bức tường gạch.
- Nghe đây: nếu tao sai vụ này và cái gì đó ào ra, mày hãy liệu làm sao ra được tới phía bên kia của căn phòng lớn. Dòng chảy sẽ đưa mày lên tới cửa hầm.
- Cái gì?
Chester hỏi lại ngay.
- Một dòng chảy... đưa tao lên hả? Tao không thích nghe cái điệu đó chút nào. Tao dông đây.
Nó quay đi, dừng bước một chút như thể chưa dứt khoát, rồi quyết định và đi về phía gian phòng chính, vừa đi vừa lầm bầm một mình.
Will chỉ nhún vai. Không có chuyện nó sẽ ngừng lại, nhất là khi có khả năng nó sẽ đưa ra ánh sáng một bí mật kỳ diệu nào đó, một bí mật quan trọng đến nỗi cha nó phải sửng sốt, và chính nó đã một mình khám phá ra. Và sẽ chẳng có ai ngăn được nó, kể cả Chester. Will lập tức tiếp tục đục quanh một viên gạch khác, khượi từng mẩu vụn hồ vữa sát mép viên gạch.
Thình lình, một phần hồ bỗng nổ bụp thành một tiếng xì hơi, và một mảng hồ bắn xuyên thẳng qua hai bàn tay đeo găng của Will như một viên đạn đá chạm vào bức tường đường hầm sau lưng nó. Nó làm rớt dụng cụ và ngã ngửa ra nền đất kinh ngạc. Nó lúc lắc đầu, lồm cồm đứng dậy, bắt tay vào công việc gỡ viên gạch, và làm xong trong vòng vài giây.
Will gọi:
- Ê, Chester!
- Hả? Cái gì?
Giọng Chester cộc cằn vang lại từ gian phòng chính.
- Cái gì hả?
- Không có nước!
Will hét trả lại, giọng nó dội lại âm hưởng kỳ cục.
- Lại đây mà coi!
Chester bất đắc dĩ lần ngược lại dấu chân của nó. Nó thấy Will quả thật đã đục thủng bức tường, và đang áp mặt nó vào cái lỗ hổng nó vừa đục ra, hít hửi không khí.
Will nói:
- Chắc chắn đây không phải là ống cống, nhưng nó đã bị nén khí.
- Có thể là một ống dẫn khí chăng?
- Không, chẳng có mùi như vậy, với lại nó được làm bằng gạch mà. Ước chừng theo tiếng vọng thì nó sâu rộng lắm.
Mắt Will lóe lên tia sáng cảnh giác.
- Tao biết là tụi mình bắt được cái gì đó. Mày lấy dùm tao cây đèn cầy và cây roi sắt ở gian phòng lớn, được không?
Khi Chester quay trở lại, Will thắp cây đèn cầy khá xa cái lỗ rồi giơ nó ra trước mặt, chầm chậm tiến càng lúc càng gần cái lỗ, cứ mỗi bước chân lại chăm chú quan sát ngọn đèn cầy.
Chester quan sát như bị thôi miên. Nó hỏi:
- Làm vậy để chi?
Will trả lời một cách đơn giản:
- Nếu có khí mày sẽ nhận thấy cách đèn cháy có khác đi. Khi người ta phá mộ Kim Tự Tháp người ta cũng làm như vầy.
Nhưng chẳng có thay đổi gì trong ánh đèn bập bùng khi Will cầm đèn tới gần hơn, rồi giơ thẳng tới trước, đưa vào lỗ trống.
- Coi bộ tụi mình an toàn rồi.
Will nói khi nó thổi ngọn đèn cầy và với lấy cây roi sắt mà Chester đã đặt tựa vào vách đường hầm. Nó cẩn thận kéo thẳng cây roi ba thước đưa vào cái lỗ rồi nhét roi qua, ấn cây roi đến khi chỉ còn thò ra một khúc ngắn giữa hai viên gạch.
- Nó không chạm vô cái gì hết – cái này bự lắm.
Will nói vẻ phấn khích, càm ràm vì ráng sức khi kiểm tra chiều sâu bằng cách thòng một đầu roi xuống đu đưa.
- Nhưng tao nghĩ tao có thể cảm nhận được cái có thể là đáy. Được, tụi mình banh cái lỗ này rộng ra chút nữa.
Hai đứa cùng làm và chỉ lát sau đã gỡ ra được đủ số gạch để Will thò đầu qua trước mà trượt xuống. Nó đụng đáy kèm một tiếng rên tắc nghẹn.
Chester gọi:
- Mày có sao không, Will?
- Không sao, chỉ té một phát.
Will đáp.
- Mày thò chân qua trước, tao sẽ đỡ mày xuống.
Chester chui qua lọt sau khi cố gắng hết sức, vai nó rộng hơn vai Will. Khi Chester đã vô được bên trong, cả hai đứa nhìn quanh quất.
Đó là một căn phòng bát giác, mỗi bức tường dựng theo tám cạnh uốn cong lên trên để hội tụ ở điểm trung tâm phía trên đầu tụi nó khoảng sáu mét. Ở điểm hội tụ có cái gì đó giống như một hoa hồng chạm trổ từ đá. Hai đứa giơ đèn lên soi với vẻ tôn kính lặng lẽ, thưởng ngoạn công trình xây bằng gạch hoàn hảo này với những trang trí hình chuỗi hạt Gô-tích. Sàn cũng được lát kiểu gạch đấu đầu nhau.
Chester thì thầm:
- Kinh thật! Ai mà ngờ được một phát hiện như vầy!
Will nói:
- Giống như một hầm mộ nhà thờ, đúng không? Nhưng điều lạ lùng nhất là...
- Gì?
Chester rọi đèn vào Will.
- Nó hoàn toàn khô khốc. Và không khí cũng có mùi như hăng hắc. Tao không chắc...
Chester đột ngột nói, vừa rọi đèn chung quanh sàn rồi hướng ánh sáng lên bức tường gần nó nhất.
- Mày thấy cái này chưa, Will? Có gì đó được ghi trên gạch. Viên nào cũng có!
Will lập tức xoay vòng để nghiên cứu bức tường gần nó, đọc những chữ viết kiểu Gô-tích được khắc công phu trên mặt mỗi viên gạch.
- Mày nói đúng. Những chữ này là tên: James Hobart, Andrew Kellogg, William Butts, John Cooper...
Chester nói:
- Simon Jennings, Daniel Lethbridge, Silas Samuels, Abe Winterbotham, Caryll Pickering... phải có tới cả ngàn cái tên trong này.
RODERICK GORDON & BRIAN WILLIAMS


0 nhận xét:

Đăng nhận xét