Home » » Âm phủ - kỳ 3

Âm phủ - kỳ 3

Hai cha con đã ra tới lỗ trống, và sau khi nhìn lại lần cuối sân ga, cả hai trèo trở lại đường hầm. Được khoảng sáu thước thì đường hầm mở ra đủ rộng để hai cha con sóng bước cạnh nhau. Nếu tiến sĩ Burrows cúi xuống một tí thì đường hầm đủ cao cho ông đứng người lên. Ông xem xét những súc gỗ trên đầu và tuyên bố:
- Chúng ta cần phải tăng cường gấp đôi các thanh giằng và trụ chống. Thay vì cách mỗi mét một, thì như chúng ta vừa bàn, sẽ phải hai cho mỗi mét.
- Dạ. Không thành vấn đề đâu, ba.
Will cam đoan với cha nó, giọng không thuyết phục lắm. Tiến sĩ Burrows dùng giầy ống đá hất đống đất sét nằm trên sàn của đường hầm, nói tiếp:
- Và chúng ta cần vận chuyển đống này đi chỗ khác. Ta đâu có muốn bị dính nhèm nhẹp dưới này, đúng không nào?
- Dạ, không.
Will đáp yếu ớt, không thực tâm có ý định làm gì hết. Nỗi hào hứng khám phá thuần túy của nó thường đưa tới kết quả là coi thường những nguyên tắc an toàn mà cha nó đề ra. Niềm say mê của nó là đào, và đầu óc nó chẳng bận tâm chút gì cho cái chuyện mất thì giờ là “dọn dẹp” như Tiến sĩ Burrows đang đặt ra. Với lại, đằng nào đi nữa thì hiếm hoi lắm cha nó mới xung phong giúp nó cuốc với đào, ông thường chỉ xuất hiện sau khi nó đã bày xong mâm cỗ.
Tiến sĩ Burrows lơ đãng huýt sáo qua kẽ răng trong lúc chậm bước lại để xem xét một đống ván gỗ và một tháp xô chậu chất chồng lên nhau gọn ghẽ. Hai cha con đi tiếp con đường hầm theo đà lên dốc, Tiến sĩ Burrows dừng bước nhiều lần nữa để kiểm tra những trụ chống bằng gỗ ở hai bên vách. Ông dùng bàn tay vỗ lên chúng, khi ông làm vậy, tiếng huýt sáo vu vơ của ông cất cao tông thành một thứ tiếng ré eng éc không ai khác phát ra được.
Cuối cùng lối đi trở nên bằng phẳng và rộng ra thành một căn phòng lớn hơn, trong phòng có một cái bàn thô và hai cái ghế bành ngó thấy thảm thương. Hai cha con liệng một mớ dụng cụ của mình lên bàn, rồi trèo nốt đoạn cuối con đường hầm để tới lối ra vào.
Đúng kíp khi đồng hồ thành phố gõ xong bảy tiếng, ở một góc trong bãi đậu xe Quảng trường Temperance, một miếng tôn lắp ghép trên mặt đất được nhấc lên vài xăng-ti-mét. Trời lúc đó chớm thu, mặt trời vừa chạm đường chân trời, hai cha con yên chí bên ngoài vắng vẻ an toàn, bèn đẩy tấm tôn ra, để lộ một cái lỗ to trên mặt đất, miệng lỗ viền khung gỗ. Hai người nhô đầu lên một tí, nhìn quanh quất, kiểm tra lần nữa để yên chí là không có ai trong bãi đậu xe, rồi mới trèo ra khỏi lỗ. Sau khi đậy lại tấm tôn che kín lối ra vào, Will gạt bụi đất phủ lên tấm tôn để ngụy trang.
Một làn gió nhẹ thổi xào xạc qua hàng rào quanh bãi đậu xe. Một tờ báo bị gió cuốn tròn trên mặt đất, được đà tung những tờ ruột báo ra xung quanh như trái lông chông. Mặt trời dần khuất, trải bóng hoàng hôn lên khắp khu nhà kho xung quanh và hắt lên bề mặt lát gạch đỏ của khu cư xá Peabody. Hai cha con nhà Burrows ung dung rời khỏi bãi đậu xe, dáng vẻ y chang hai kẻ truy tìm châu báu đã để lại kho tàng dưới chân đồi mà về thành phố.
Chương hai
Phía bên kia Highfield, ông Terry Watkins, hay còn được đồng nghiệp gọi là “Tel xe ben”, đang mặc quần ngủ đứng đánh răng trước tấm gương trong buồng tắm. Ông đã oải lắm rồi và chỉ mong ngủ một giấc thiệt ngon, nhưng đầu óc ông sao cứ quay cuồng vì những điều ông đã thấy hồi chiều.
Hôm nay đúng là một ngày dài vất vả. Ông và đội dọn quang đã ủi sập xưởng chì trắng cổ lỗ sĩ để lấy chỗ xây khu nhà văn phòng cho ban ngành sở nhà nước hay gì đó. Ông chẳng mong gì hơn được về nhà, nhưng ông lại đã hứa với sếp là sẽ lấy lên vài mẫu gạch dưới tầng hầm để thử làm một bản đánh giá tầm cỡ của các nền tảng ở đó. Công ty của ông không thể kham nổi mức quá lố của hợp đồng, mà mấy tòa nhà cũ như vầy thường có nguy cơ đẻ lố công việc.
Trong lúc ngọn đèn pha xách tay rọi sáng từ sau lưng, ông đã vung búa tạ đập bể những viên gạch xưa chế tạo thủ công, gạch bể lòi ra phần bên trong đỏ au không khác gì những con vật bị moi ruột. Ông vung búa lên lần nữa, mảnh vụn văng tứ tán và rớt xuống sàn tầng hầm đen thui bồ hóng. Ông lầu bầu chửi thầm vì cả cái tầng hầm này được xây dựng quá ư kiên cố.
Sau vài trận lôi phong, ông dừng tay chờ cho đám bụi gạch mờ mịt lắng xuống. Ông ngạc nhiên hết sức khi nhận ra nguyên mảng tường nãy giờ ông đục phá chỉ mới là một lớp gạch mặt ngoài mà thôi. Lẽ ra bên trong là gạch lớp thứ hai, thứ ba, thì lại là một tấm sắt thô cũ kỹ. Ông đập cho tấm sắt vài búa, mỗi búa dội lại một tiếng vang rền chắc nịch. Tấm sắt không dễ gì chịu bung ra. Ông thở hồng hộc, đập vụn nát mớ gạch viền quanh mép tấm kim loại vừa bị phát hiện, ngạc nhiên cực độ khi thấy tấm kim loại ấy có bản lề, thậm chí có cả nắm đấm cửa chìm trên bề mặt.
Một cánh cửa.
Ông ngừng lại, thở hổn hển một lát trong lúc cố nghĩ ra xem tại sao ai đó lại gắn cửa vào một nơi lẽ ra chỉ là móng nhà.
Tiếp theo ông phạm một sai lầm lớn nhất đời ông.
Ông dùng cái tua-vít để tháo cái nắm đấm cửa ra. Một vòng sắt chế tạo công phu, xoay được dễ dàng một cách đáng ngạc nhiên, không cần chút cố gắng nào. Ông đá một cú nhẹ bằng mũi giày bảo hộ lao động và cánh cửa bung mở về hướng trong, áp vào mặt tường bên kia, gây ra một âm thanh ngân vang tưởng như không bao giờ dứt. Ông lấy cây đèn pin ra và rọi vào bóng tối như hũ nút bên trong căn phòng. Ông có thể thấy nó rộng ít nhất cỡ sáu thước, và thực ra thì căn phòng hình tròn.
Ông đi qua cửa, đặt chân lên nền đá bên trong. Nhưng ông vừa đi bước thứ hai thì sàn đá biến mất và bàn chân của ông không chạm được cái gì ngoài không khí. Một cú rơi! Ông chới với ngay trên mép, hai cánh tay ông quơ quào loạn xạ cho đến khi ông giữ được thăng bằng và lùi ra khỏi miệng vực. Ông ngã tựa vào thanh dọc khung cửa và bám vào đó, hít lấy mấy hơi thở thật sâu để thần kinh ổn định lại, và tự nguyền rủa cái thói ẩu tả của mình.
Ông nói lớn, buộc mình tỉnh táo lại:
- Thôi nghe, vụ này không xong đâu.
===============
 Ông quay lại, từ từ nhích tới trước, ngọn đèn trong tay ông soi cho thấy thực ra ông đang đứng trên một gờ tường, bên ngoài gờ là một khoảng không đen hù đáng sợ. Ông hơi chồm tới, thử nhìn coi bên dưới là cái gì - có vẻ như khối đen ấy không có đáy.
Ông đã bước vào một miệng giếng xây bằng gạch khổng lồ. Mà khi nhìn lên ông cũng chẳng thấy cái nóc đâu cả - thành giếng bằng gạch cong cong vươn lên mất hút vào bóng tối, ánh sáng từ ngọn đèn của ông không rọi tới được. Một làn gió mạnh dường như thổi từ trên xuống, khiến mồ hôi sau gáy ông lạnh giá.
Xoay ngọn đèn rọi chung quanh, ông nhận thấy có những bậc thang, có lẽ rộng chừng nửa thước, dẫn xuống men theo thành giếng, bắt đầu ngay bên dưới cái gờ ông vừa đứng. Ông giẫm giẫm lên bậc thang thứ nhất để kiểm tra độ chắc chắn của nó, rồi bắt đầu đi xuống cầu thang, hết sức thận trọng sao cho không trượt té trên lớp bụi dày, vương vãi rơm rác và cành vụn. Lần theo thành giếng, ông leo xuống, càng lúc càng sâu hơn, cho đến khi cánh cửa được rọi sáng bằng ánh đèn pha chỉ còn là một cái chấm nhỏ xíu phía trên ông.
Cuối cùng cầu thang hết bậc, ông lại thấy mình đứng trên một cái sàn lát đá. Dùng đèn pin rọi chung quanh, ông có thể thấy nhiều cái ống màu đồng gỉ gắn trên tường, giống cây đàn ống ở nhà thờ. Ông dõi theo đường của một ống chạy ngoằn ngoèo lên trên thì thấy cái ống đó tận cùng nối với một cái phễu, như thể đó là một thứ ống thông gió gì đó.
Nhưng cái khiến ông chú ý hơn hết là một cánh cửa có một ô kính nhỏ. Ánh sáng đang chiếu xuyên qua ô kính đó, ông không thể nhầm lẫn được. Ông tưởng đâu mình đâm ra đần độn lọt xuống âm phủ, nhất là tai ông nghe như có tiếng rì rầm của máy móc và cảm thấy như không khí bị hút xuống liên miên.
Ông từ từ tiến tới gần cửa sổ, cái ô kính dầy hình tròn, lốm đốm và trầy xước vì cũ kỹ. Ông nhóng nhìn qua và không thể tin nổi vào mắt mình. Qua mặt kính gợn sóng, ông thấy một cảnh giống như trong phim đen trắng đã cũ bị trầy trụa. Dường như có một con đường và một dãy nhà. Và tắm trong ánh sáng tỏa từ những trái cầu rực rỡ của những đốm lửa di động chậm rãi, người ta đang lây lất quanh quẩn. Những con người bộ dạng phát gớm. Trông như những con ma xanh xao mặc quần áo thời xưa lắc xưa lơ.
Ông không phải là một con người có lòng mộ đạo lắm lắm, chỉ đi nhà thờ vào dịp cưới hỏi hay tang ma, nhưng trong một thoáng ông đã tự hỏi chẳng lẽ mình đã sa địa ngục, nếu không phải một kiểu lò luyện ngục ở khu vui chơi giải trí nào đó. Ông lùi khỏi cửa sổ, làm dấu thánh giá, lảm nhảm thảm thương mấy câu kinh Lạy Mẹ Maria sai bét, rồi cun cút đi lên cầu thang trong cơn hoảng loạn, đóng bít cánh cửa lại để cho quỷ sứ khỏi thoát ra.
Ông chạy băng qua công trường có tòa nhà bỏ hoang đó, gài móc khóa cánh cổng sau lưng. Ông lái xe về trong nỗi sững sờ, không biết có nên báo cáo sếp chuyện này vào sáng hôm sau. Mặc dù ông đã chứng kiến bằng chính mắt mình, ông cũng không thể nào đừng được việc rà đi soát lại hình ảnh đó trong đầu. Khi về tới nhà thì ông thực tình không còn biết nên tin cái gì.
Ông không tài nào nhịn được kể chuyện này cho gia đình; ông phải nói với ai đó mới được. Aggy vợ ông và hai đứa con trai mười mấy tuổi đều cho là lúc đó ông nhậu xỉn rồi, thành ra trong bữa cơm chiều ông bị họ giỡn mặt bằng kiểu sám hối bông phèng. Họ giơ lên mấy cái chai tưởng tượng, giả bộ nốc rượu giữa những tràng cười thô lỗ, cho đến khi ông nín thinh. Nhưng dù vậy ông vẫn không sao dứt bỏ được câu chuyện. Cuối cùng bà Aggy bảo ông ngậm miệng lại, đừng lải nhải hoài về những quái vật tóc trắng dưới địa ngục và mấy trái cầu lửa lơ lửng kiểu ma trơi trong lúc bà đang cần tập trung để xem chương trình Stenders trên tivi.
Thành ra ông vô nhà tắm, chà mấy cái răng hàm và thắc mắc địa ngục có thực không. Đúng lúc đó ông nghe một tiếng rú phát ra – tiếng rú của vợ ông, tiếng rú thường dành cho lũ chuột cống và mấy con nhện nhép trong buồng tắm. Nhưng trước khi tiếng rú chuyển tông thành tiếng gào thét toàn thân như thông lệ thì đột ngột bị cắt.
Bản năng ông bắt đầu rung chuông báo động, thần kinh của ông rối mù như làm xiếc khi ông quay phắt người lại, chỉ kịp nhận ra đèn đóm tắt phụt và thế gian đảo lộn tùng phèo, đồng thời ông bị gạt ngã chỏng cẳng, cổ chân bị túm chặt.
Tay chân ông bị kẹp sát vô hông bằng một thứ gì đó mạnh hơn ông rất nhiều khiến ông vô phương chống cự. Sau đó chung quanh ông là một thứ vật chất đặc sệt bao bọc toàn thân, cho đến khi ông thành một cuộn thảm người, rồi ông bị cuộn tròn theo thế nằm ngang, và bị vác đi, như thể ông đúng là một cuộn thảm.
Kêu cứu là chuyện bó tay, bởi vì miệng ông đã bị bít nghẽn, và ông mà còn thở được đã là một cố gắng phi thường. Có lúc ông tưởng như nghe tiếng kêu của một trong hai đứa con trai của ông, nhưng âm thanh đó ngắn và bị bưng bít nên ông không chắc lắm. Cả đời, ông chưa bao giờ thấy hoảng sợ cho gia đình mình và bản thân mình như vậy. Hoặc cảm thấy hoàn toàn bất lực, không thể cứu giúp được gì hết.
RODERICK GORDON & BRIAN WILLIAMS

0 nhận xét:

Đăng nhận xét