Hiển thị các bài đăng có nhãn Lòng Trắc Ẩn... Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lòng Trắc Ẩn... Hiển thị tất cả bài đăng

Lòng Trắc Ẩn - Phần 05

Hondo
Năm tháng đã làm con Hondo già đi; mùa đông đã lấy đi một phần sức lực của nó rồi. Tuyết xuân đã tan và những bông hoa mùa hè đã hé nụ nhưng đối với con Hondo, chỉ có một mùa mà thôi.
Đã ba ngày nay, con chó già màu đen của chúng tôi không thể leo lên sàn nhà được. Nó nằm ngủ trên bãi cỏ dưới bóng cây. Chúng tôi đã mang cái thảm của nó ra đến bãi cỏ và con vật nằm nghỉ ở đó. Cái xoong nhỏ nhỏ bằng sắt là dĩa đựng đồ ăn được đặt kề bên nó. Sáng hôm nay, nó không còn cố ngẩng đầu lên. Nó chẳng chịu uống nước, cũng chẳng chịu ăn.
Tôi ra ngồi trên bãi cỏ ngay cạnh nó. Lông nó hoàn toàn chưa rụng hết. Lớp lông xám bụi bẩn của nó dài lõa xõa. Chúng tôi cùng thì thầm trò chuyện với nhau. Tôi giả vờ như con Hondo đang nghe mình nói. Tôi vòng tay ôm đầu và hôn lên trán nó. Tôi nhấc một móng chân của nó lên và nhẹ nhàng vuốt ve gan bàn chân thô cứng, nứt nẻ ấy.
Cuộc sống của chúng tôi như nhuốm sắc màu ảm đạm vì nó đang hấp hối. Chúng tôi đã được phép nghỉ một vài ngày để có thể ở nhà cùng với nhau. Tôi kéo một nhúm lông của con Hondo ra khỏi cái bàn chải và tung nó vào trong gió. Gió cuốn những sợi lông, mang chúng ra tới lối đi và lên trên những ngọn cỏ cao.
Trong tâm trí tôi hiện ra những hình ảnh sống động của Hondo trong nhiều năm: Lúc đó, Hondo đang ngồi ở sân trước nhà suốt hai ngày liền, đợi Mark – chồng tôi – trở về sau khi tham gia dập tắt đám cháy rừng; Hondo và Sarah – con gái tôi, – nằm kế bên nhau, tựa như hai chiếc lá trên một cành cây; Hondo và Matt – con trai tôi – cùng tát nước ra khỏi một cái vũng cạn, bắt những con nòng nọc trơn tuột.
Và còn hai chúng tôi thì sao? Con chó cưng từ thuở còn nâng niu trên tay đã dạy tôi biết cách lần theo dấu vết hươu, nghe tiếng gọi của chim ưng đuôi đỏ, ngửi được mùi của lá xô thơm trong gió. Tôi đã học được cách nhận biết mùi của đất tươi mới, những gốc cây ẩm ướt chứa đầy những con côn trùng.
Mưa xuống, những giọt nước bắn tung tóe lên cánh cửa sổ và tường nhà. Mưa rơi trên mình Hondo nhưng con vật không nhúc nhích, chỉ chớp chớp mắt mà thôi. Tôi lại đi lấy một cái mền đắp lên mình nó. Con Hondo vẫy đuôi và lại chớp mắt.
Mark giúp tôi mang một cái bàn nhỏ ra ngoài bãi cỏ. Chúng tôi cẩn thận đặt cái bàn trên người con Hondo, để che mưa cho nó.
– Mình có nên đưa nó vào trong nhà không? – Tôi hỏi Mark.
– Anh nghĩ nên để nó ở nơi nó muốn.
Sau đó, khi nhìn qua cửa sổ, tôi thấy mưa đã tạnh và Mark đang ngồi trên cỏ ngay cạnh con Hondo. Cái mền hơi nhúc nhích khi con Hondo vểnh đuôi lên. Mark đặt tay trên đầu con vật. Anh đưa tay vuốt ve phía sau tai con Hondo. Người và vật ngồi đó, hệt như những người bạn tốt nhất của nhau – những người bạn đồng hành chung thủy.
Suốt ngày hôm đó – hết Matt rồi lại Sarah cứ thay phiên nhau ngồi lại bên con Hondo. Matt nằm kế bên con chó. Sarah nhấc cái mền lên và vỗ về con vật.
Đêm xuống, con Hondo nằm lặng lẽ dưới lớp mền vốn dành cho loài ngựa. Cái mền che kín người nó, ngoại trừ cái đầu. Chúng tôi đã thốt ra những lời chào tạm biệt, những giọt nước mắt của chúng tôi đã chảy xuống từ lâu rồi.
Cảm giác tội lỗi vây kín tôi vì đã không đưa con Hondo vào trong nhà để ngủ cạnh chân giường. Nhưng chẳng hiểu sao, chúng tôi không thể nhốt nó trong bốn bức tường. Chúng tôi không thể cho phép mình lấy đi những ngôi sao trong ánh mắt nó. Chúng tôi muốn ánh trăng dẫn đường nó lên thiên đàng và những chú dế mèn ru nó vào giấc ngủ.
Màn đêm buông xuống. Bầu trời phía đông rực sắc hồng. Những giọt sương rơi trên lá cỏ. Tôi mặc quần áo ngủ ngồi trên lớp cỏ ướt đẫm. Con Hondo vừa trút hơi thở cuối cùng. Tôi cúi đầu trên ngực nó, nơi trái tim tận tụy của nó giờ đây nằm yên. Và tôi ngửi mùi quen thuộc của chú chó lần cuối.
Khi mặt trời lên, những chú chim cổ đỏ đã hót xong, tôi kéo cái mền ngựa cũ phủ lên toàn thân mình con Hondo và vào nhà.
Sau đó, chúng tôi cùng đưa con Hondo ra nghĩa trang.
– Mẹ à, con muốn hái một ít hoa cho nó! – Sarah nói. Và cô bé chạy đi kiếm những bông hoa dại xinh đẹp.
Matt muốn kiếm một cái cây gỗ:
– Con không biết chôn cái cây này với con chó có tốt không? – Thằng bé hỏi.
– Được, Matt. Tốt đấy! – Mark trả lời, giọng anh run run.
Sarah quay trở lại với bó hoa bồ công anh dại, một ít cây cúc tây dài, rất nhiều cây cỏ thi màu trắng, hai cành cây hoa chuông lá tròn và những bông cỏ ba lá màu đỏ.
– Những bông này được không mẹ? Đây là những bông đẹp nhất đó.
Matt quay trở lại với một cây gỗ dài khoảng ba tấc.
– Tuyệt lắm! – Mark gật đầu.
Bốn chúng tôi đứng vòng quanh mộ của Hondo và nắm tay nhau. Chúng tôi lần lượt cầu nguyện cho nó.
– Xin Chúa trời đưa con Hondo lên thiên đàng và làm cho nó trẻ lại! – Mark nói lời nguyện ước đơn giản.
Chúng tôi đặt một tảng đá lớn lên trên mộ nó và Sarah đã cài những cái bông còn sót lại dưới mép tảng đá.
Mọi việc đã hoàn tất.
Bốn người chúng tôi nắm tay nhau rời khỏi mộ con vật, đắm chìm trong suy nghĩ. Khi đi ngang qua một góc sân, Mark chậm bước lại và quay đi. Tôi nghe một tiếng thổn thức thật não lòng phát ra từ người đàn ông có vẻ ngoài cứng cỏi như anh. Mark đang tựa mình vào góc cột hàng rào, những tiếng thổn thức làm cơ thể mạnh mẽ của anh rung lên, dù trước đây tôi đã có lần thấy Mark khóc. Đây là lần thứ hai tôi thấy anh đau khổ như vậy.
Những ngày kế tiếp theo thật là u ám. Vào một buổi chiều muộn, sương mù bao phủ trại nuôi súc vật của chúng tôi. Mark và đám trẻ đã đi ra ngoài vì thế tôi phải làm những phần việc của đêm hôm đó. Tôi đi lùa cừu về và men theo hàng rào. Cuối cùng, tôi đã đến nơi chúng đang gặm cỏ. Tôi cất tiếng gào to qua màn sương mù, hối thúc lũ cừu trở về chuồng cho đến khi chuồng gia súc bị nhấn chìm trong một màu xám xịt.
Khi đã đưa được hết lũ cừu về chuồng, tôi thong thả trở vào nhà. Một cách vô thức, tôi lần tìm con Hondo trong màn sương mù, mong mỏi thấy nó lướt đến bên tôi. Theo bản năng, tôi đưa tay ra vỗ về bộ lông óng mượt màu đen của nó nhưng chỉ gặp một màu trắng và nỗi trống trải của mình.
Sau đó, thoạt đầu rất lặng lẽ, tôi nghe mình cất tiếng gọi con vật – tiếng gọi yếu ớt, the thé vang qua cánh đồng, kéo dài ra và trôi dạt vào màn sương mù.
Hooonnndooo...
Ngọn núi đã thu âm tiếng gào của tôi, giữ lại một lúc rồi sau đó lại trả lại cho tôi – nghe êm tai hơn nhưng không còn là giọng của tôi nữa. Và từ một chỗ nào đó ở phía xa không rõ, một con chó sói đã tru đáp lại lời tôi.

N.V

Lòng Trắc Ẩn - Phần 06

Chú mèo Giáng sinh vùng Yorkshire
Những chú chó Basset nhìn nó bằng nửa con mắt. Chẳng có điều gì khiến chúng phải chạy theo một quả banh nhưng Buster đã lượm đi lượm lại trái banh như thể không biết chán.
Chị Ainsworth xoay người sang tôi:
– Chú có bao giờ thấy một điều gì như thế này chưa?
– Chưa bao giờ. Buster là chú mèo phi thường nhất! – Tôi đáp.
Chị Ainsworth ra hiệu cho con Buster ngưng chơi và chúng tôi trở vào nhà. Chị ghì con Buster vào mặt, bật cười khi thấy nó vui sướng, dụi đầu vào má chị. Khi nhìn thấy nó khoẻ mạnh và hồn nhiên, tôi lại nghĩ đến mẹ nó. Một con vật trước lúc chết đã cố thu hết sức lực mang con mình đến nơi ấm áp duy nhất mà nó biết, với hy vọng là con mình sẽ được chăm sóc ở đó.
Nhưng dường như tôi không phải là người duy nhất đang tưởng tượng.
Chị Ainsworth xoay sang tôi, mỉm cười, mắt đăm chiêu:
– Chắc Debbie sẽ rất hài lòng.
– Vâng, nó sẽ rất hài lòng. Chỉ mới một năm trước thôi, Debbie đã mang con Buster lại đây! – Tôi gật đầu.
Đúng rồi, chị lại ôm con Buster:
– Đây là món quà Giáng sinh hay nhất mà chị từng nhận được.

N.V

Lòng Trắc Ẩn - Phần 03

Con mèo xấu nhất hành tinh
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Smoky là lúc nó đang ở giữa đống lửa. Hôm ấy tôi cùng các con ra bãi đất ngoài vùng Arizona vắng vẻ để đốt rác hàng tuần. Khi tới gần một cái hố còn đang âm ỉ, chúng tôi nghe thấy tiếng kêu thương tâm của một chú mèo đang bị chôn vùi giữa đống lửa.
Một chiếc thùng bìa lớn niêm kín bỗng cháy rực và nổ tung. Một tiếng meo dài thảm thiết vang lên cùng một chú mèo bị hất tung lên như một tên lửa chói sáng rồi lại rơi vào hố tro tàn.
– Kìa mẹ, mình phải làm gì chứ! – Bé Jay 3 tuổi kêu lên và cùng bé Becky – 6 tuổi – chồm tới hố tro còn bốc khói.
– Chắc là nó chết rồi! – Anh Scott 14 tuổi lên tiếng. Nhưng rồi đám tro cựa quậy và một chú mèo bé xíu, cháy xém bắt đầu vẫy vùng một cách phi thường để nhoài lên mặt đất, đau đớn lết về phía chúng tôi.
– Để con! – Scott la lên. Lúc con trai tôi quỳ trên đám tro và bọc chú mèo trong một chiếc khăn, tôi cứ thắc mắc tại sao con mèo không kêu nữa. Sau này chúng tôi mới hiểu rằng vài phút trước đó chú đã kêu tiếng meo cuối cùng.
Mọi người trở về trang trại, đang chăm sóc cho con mèo thì Bill – chồng tôi – trở về.
– Bố ơi! Chúng con tìm thấy một con mèo bị cháy! – Jay loan báo
Khi nhìn “bệnh nhân”, mặt anh thoáng vẻ “ôi không, lại nữa à”. Đây không phải lần đầu tiên mọi người đón anh bằng một con vật bị thương. Tuy Bill hay càu nhàu nhưng anh không đành lòng nhìn bất kỳ sinh vật nào đau đớn vì vậy Bill đã giúp đóng chuồng gia cầm, lồng chim, các thanh nẹp xương cho chồn, thỏ mà chúng tôi mang về. Nhưng lần này thì khác. Đây là mèo. Mà Bill không hề thích mèo.
Hơn nữa đây không phải là chú mèo bình thường, toàn thân chú giờ đây là những vết bỏng rộp, một vài miếng thịt đen bầy nhầy, hai tai không còn và đuôi thì chín đến tận xương. Còn đâu là những móng vuốt sắc nhọn, còn đâu là những bàn chân in dấu trên mui xe đầy bụi bặm. Không còn lại chút gì của một chú mèo – có chăng chỉ là hai mắt to xanh biếc đang khẩn thiết van nài.
Chúng tôi còn có thể làm được gì nữa?
Tôi bỗng nhớ đến cây lô hội có tính năng chữa lành các vết bỏng. Chúng tôi vặt lá, băng chú mèo bằng những vòng lá lô hội và buộc nẹp cố định. Jay đặt chú trong chiếc rổ đựng trứng Phục sinh của mình. Giờ đây chỉ còn thấy khuôn mặt bé tí tẹo của chú, trông như một chú bướm chờ ngày vươn mình ra khỏi kén. Lưỡi chú bị bỏng nặng, miệng phồng rộp nên lũ trẻ đút sữa cho chú bằng một lọ nhỏ mắt... sau một thời gian, chú tự ăn được. Mọi người đặt chú là Smoky – nghĩa là ám khói.
Ba tuần sau, cây lô hội đã trụi lá. Giờ thì chúng tôi quấn chú trong một lớp thuốc mỡ. Đuôi chú rụng mất rồi, lông cũng chẳng còn sợi nào nhưng bọn trẻ yêu chú. Bill không yêu Smoky, còn Smoky thì khinh khỉnh với anh. Tại sao ư? Vì anh là người nghiện hút tẩu, lúc nào cũng mang bên mình diêm và hay quẹt lửa. Mỗi khi anh bật lửa, Smoky thường hoảng loạn, phóng tới một góc phòng – Chẳng lẽ không yên lấy một chút à! – Những lúc ấy Bill lại làu bàu.
Rồi thì Smoky cũng dần dần chịu được chiếc tẩu và chủ nhân của nó. Chú nằm dài trên ghế và nhìn Bill trừng trừng mỗi khi anh rít thuốc. Một hôm Bill thổ lộ “cái con mèo quái quỷ này làm anh có cảm giác tội lỗi quá”
Đến cuối năm, Smoky đã trở nên thân thuộc với Bill. Bill cũng trở nên nổi tiếng vì là người có con mèo xấu nhất vùng, thậm chí là nhất nước – mà có lẽ là xấu nhất hành tinh ấy chứ.
Cũng lạ, dần dần Bill trở thành người được Smoky quan tâm nhiều nhất. Bill cũng thay đổi, anh hiếm khi hút thuốc. Trong một đêm đông, tôi thật ngạc nhiên khi thấy anh ngồi trên ghế với chú mèo nhỏ da nhẵn thín khoanh tròn trong lòng. Không để tôi kịp lên tiếng, anh lầm bầm cộc lốc “Chắc là nó lạnh – không có lông mà, em biết đấy!”.
Có lẽ Bill đã thích con vật ngồ ngộ này rồi...
Một điều kỳ diệu xảy ra trong năm thứ hai của Smoky: Chú bắt đầu mọc lông. Những sợi lông tơ bé xíu màu trắng, mềm và mịn hơn lông gà con từ từ mọc cao đến 3 inches, biến chú mèo xấu xí thành một dải khói trắng mỏng manh mềm mại.
Bill khoái làm bạn với chú mèo dù nhìn cả hai không hợp nhau chút nào – một chủ trang trại to con, dạn dày sương gió ngồi sau tay lái, răng cắn chặt chiếc tẩu chưa đốt đi cùng một cục bông trắng toát bé bỏng. Mỗi khi ra khỏi xe, anh vẫn để máy lạnh hết cỡ cho chú dễ chịu. Đôi mắt xanh của chú ậng nước, cái mũi hồng hồng sụt sịt nhưng chú vẫn ngồi đó, không chớp mắt, ngây ngất thỏa mãn.
Một hôm Smoky đi cùng Bill tìm một con bê lạc. Lúc ấy chú đã lên ba. Bill ra khỏi xe hàng mấy giờ đồng hồ và cửa xe để ngỏ. Đồng cỏ khô cháy giòn tan mà con bê vẫn chưa tìm thấy. Chán nản, không suy nghĩ, Bill thọc tay lấy chiếc bật lửa và đánh quẹt. Một tia lửa phóng xuống mặt đất và chỉ vài giây sau cánh đồng đã bốc cháy.
Bill hoảng hốt không để ý đến chú mèo. Chỉ sau khi đám lửa đã được dập tắt anh trở về nhà và mới nhớ ra.
– Smoky! – Anh gào lên – Chắc nó đã nhảy ra khỏi xe, nó có về nhà không?
Không. Và chúng tôi đều biết rằng con mèo không thể tìm được đường về cách đây tới 3 dặm. Tệ hơn nữa trời bắt đầu đổ mưa – mưa to đến nỗi không ai có thể ra ngoài tìm Smoky được. Bill điên cuồng tự xỉ vả bản thân. Chúng tôi tìm suốt ngày hôm sau nhưng chẳng có kết quả gì...
Hai tuần sau Smoky vẫn chưa về nhà, chúng tôi nghĩ rằng chú đã chết. Rồi đợt mưa bão lớn nhất trong vòng 50 năm qua tràn đến. Đến sáng nước lũ đã trải dài hàng dặm. Tôi và các con đang buồn rầu nhìn dòng nước thì Jay la lớn:
– Bố ơi, có con thỏ tội nghiệp kìa, bố cứu nó nhé!
Bill lội đến chỗ con vật để rồi sung sướng kêu lên:
– Không thể tin được! – Giọng anh vỡ oà – Smoky đấy! Smoky bé bỏng!
Mắt tôi cay xè khi thấy con vật bé nhỏ nhoài vào vòng tay rộng mở của người đàn ông đã yêu thương nó. Anh ghì chặt tấm thân đang run cầm cập của chú vào ngực, dịu dàng lau những vết bùn đất trên mặt chú. Đôi mắt xanh của Smoky nhìn anh âu yếm... anh đã được tha thứ.
Smoky đã trở về và cả nhà chúng tôi rất vui mừng khi thấy chú dần bình phục... nhưng Smoky chưa bao giờ khoẻ thật sự. Một buổi sáng, khi chú vừa tròn 4 tuổi, chúng tôi thấy chú lả đi trên ghế của Bill, tim chú ngừng đập.
Lúc bọc thi hài bé bỏng của chú trong chiếc khăn choàng cổ màu đỏ, tôi đã suy ngẫm biết bao điều mà Smoky yêu quý đã dạy cho chúng tôi: về niềm tin, về tình yêu và về sự chống trả quyết liệt khi mọi thứ đều bắt mình chịu thua. Chú nhắc nhở chúng tôi rằng: Hoàn cảnh bên ngoài không quan trọng bằng những gì bên trong, tận sâu trong đáy lòng mình.

HÀN TUYẾT LÊ

Một lời tạm biệt nhẹ nhàng
Nhiều năm sau khi trở thành góa bụa, mẹ tôi đã quyết định rằng mèo sẽ là người bạn đồng hành tuyệt vời nhất của bà. Vì ở nhà tôi có nuôi hai con mèo nên mẹ coi tôi là chuyên gia về loài này.
Khi bác sĩ thú y bảo tôi có một ổ mèo mới sáu tuần tuổi bị người ta bỏ ở bậc cửa phòng mạch ông, tôi đã giúp mẹ tôi lựa con mèo tuyệt vời nhất.
Mẹ đặt tên nó là Cameo. Từ lúc đó trở đi, mẹ tôi quí con mèo nhị thể đen trắng này lắm. Con mèo này nhanh chóng trở thành niềm vui và tự hào của mẹ.
Tám năm sau đó, con mèo Cameo là con mèo duy nhất của mẹ tôi. Vì mẹ và tôi ở gần nhà nhau, chúng tôi thường xuyên đến nhà nhau và nói chuyện về mèo. Khi tôi đem con chó săn màu vàng của tôi đến thăm mẹ, con Cameo thường lẩn trốn ngay khi tôi và con chó bước vào căn hộ. Sau khi được tôi tháo xích, con chó Ivy chạy đi tìm bạn để chơi nhưng con Cameo lại càng lẩn sâu vô gầm giường.
Trong những chuyến viếng thăm thường xuyên của tôi ở nhà mẹ, hai con chó của tôi đã quan hệ với con mèo của mẹ rất thoải mái. Tuy nhiên, khi mẹ tôi đến chỗ tôi, con Cameo đến với chúng tôi, con vật lại e thẹn cứ nấp sau bếp lò hay trên tủ. Thông thường, dấu hiệu duy nhất về sự hiện diện của nó là cái chén thức ăn tôi để ra ngoài cho nó vào ban đêm hết nhẵn vào sáng hôm sau, trong khi hai con mèo của tôi ngủ trong phòng với tôi. Dù cô chó Ivy của tôi đối xử rất nhẹ nhàng với loài mèo, con Cameo vẫn chưa bao giờ cảm thấy thoải mái với con chó này cả.
Khi mẹ tôi mất, thế giới của con Cameo bỗng đảo lộn. Trước đây tôi đã hứa với mẹ rằng tôi sẽ nhận nuôi con mèo yêu quí của bà nếu bà có mệnh hệ gì. Vì tôi mới lập gia đình gần đây và đã dời nhà từ New York tới California, con Cameo phải vượt qua chướng ngại đầu tiên là chuyến bay xuyên bờ biển. Tôi rất vui mừng thấy cô mèo trải qua quãng đường xa vậy hầu như không kêu ca trong cái làn tôi đặt dưới chỗ ngồi bỏ trống ngay bên cạnh. Con Ivy – như hầu hết các con chó săn – ngồi vào chỗ để hành lý xách tay dưới cái ghế trước mặt tôi. Khi chúng tôi tới Fresno, con Cameo phải thích nghi với cuộc sống mới lạ lẫm, sống chung với một con mèo mới và con chó Kirby của chồng tôi. Phải giao du với một con chó săn vàng cũng đủ khổ rồi nhưng giờ đây con vật lại phải giao du với thêm hai con vật hay nghịch ngợm nữa.
Như tôi đã dự đoán, con Cameo đã ẩn mình suốt ba tuần lễ. Cuối cùng, do cần thức ăn, con vật e thẹn này đã đành phải rời bỏ nơi ẩn náu và hòa nhập vô đời sống gia đình.
Vì nuôi rất nhiều mèo trong căn hộ của mình, tôi đã phân biệt các con mèo với nhau bằng những cái chuông cột cổ có âm thanh khác nhau. Tôi đã dành cho con Cameo cái chuông leng keng nhỏ xíu có vẻ như rất hợp với tính cách thích được người khác âu yếm của nó. Cái hôm tôi nghe tiếng leng keng của cái chuông con Cameo đụng vô chén đồ ăn, tôi biết là cả tôi lẫn nó đang bước vào giai đoạn mới bên nhau.
Bất cứ khi nào ngồi trên chiếc ghế ưa thích trong phòng khách lắng nghe chương trình đọc sách trên đài hay ngồi khâu đan, tôi đều biết ngay khi nào con Cameo đến ngồi trên đùi tôi. Sau một hồi, con vật thường húc đầu vào bàn tay tôi ngụ ý đã đến lúc tôi không được nghe đài hay đan lát nữa mà phải chải lông cho nó. Con vật tỏ ra rất vui sướng vì được chải lông và nó tưởng thưởng cho tôi bằng tiếng kêu gừ gừ, đưa móng chân vuốt ve tôi. Đôi khi, tôi cảm giác người nó bỗng cứng đờ và lúc đó tôi biết một trong hai con chó đang lại gần chúng tôi. 
Trong những tháng đầu tiên ở với chúng tôi, con Cameo thường nhảy lên đùi tôi rồi lên bàn, hay tủ lạnh mỗi khi con Ivy hay Kirby tiến lại gần. Chẳng bao lâu con Cameo nhận ra rằng chỉ cần kêu rít lên hay quào là những con chó to lớn kia rất dễ bị khuất phục, cô nàng chẳng buồn nhảy khỏi đùi tôi những khi hai chú chó đến gần và chẳng thèm tuân phục nội qui mà những con chó đề ra.
Những năm sau này, cô mèo Cameo và những con chó chung sống rất hòa bình với nhau. Mỗi buổi sáng khi chuông đồng hồ báo thức, những con chó cùng chúng tôi ra ngoài đi dạo, con Cameo lại nhảy lên giường của những con này. Sau này, cô nàng không còn nghĩ đến việc nhảy lên mình những con chó để giành sự vuốt ve âu yếm của chủ với những con chó nữa.
Khi con Ivy không còn giữ nhà nữa vì bị mù, con Escort – một thành viên giữ nhà mới đã bước vào gia đình chúng tôi, con Cameo đã sớm thích nghi với sự thay đổi này, nó tỏ vẻ rất tự tin.
Con Cameo chỉ cần kêu rít lên, phun phì phì và quào lên mũi chú chó mới đã khiến con Escort – chú chó săn có bộ lông màu vàng rất tinh nghịch phải xếp ve. Cũng như hai con Ivy và Kirby, con Escort nhận thấy con vật nhỏ bé này luôn muốn được ở một mình không ai quấy rầy, đặc biệt khi con vật ngồi lên đùi tôi.
Con Cameo và con Ivy – con chó yêu của tôi – chẳng bao giờ kết thân được với nhau dù chúng cùng sống chung với nhau suốt sáu năm trời. Chúng giống như anh em ruột trong nhà vì muốn gia đình êm ấm đã thỏa thuận sống cùng với nhau nhưng lại làm ngơ với nhau.
Trong những năm con Ivy bị bệnh không còn trông nhà được, sức khỏe của nó tiếp tục sút giảm. Rồi cũng đến ngày sức khỏe của con vật giảm đến mức chúng tôi phải chia tay nhau.
Tôi đã khẩn thiết điện cho bác sĩ thú y đến nhà giúp người bạn đồng hành với tôi suốt mười một năm trời chết không đau đớn. Khi bác sĩ đến, chồng tôi, cô bạn Eve và tôi ngồi quây quanh người con vật dưới đất để an ủi nó trong giờ phút cuối đời. Vào lúc này, con Cameo đang say sưa ngủ trong ghế mà nó ưa thích. Chuyện xảy ra sau đó đã giúp tôi biết một nét hoàn toàn mới và không ngờ trong tính cách của cô mèo.
Cô mèo giật mình thức giấc, tiếng chuông trên người nó rung leng keng báo cho tôi biết con vật đang lại gần chỗ chúng tôi. Con Cameo nhảy chồm lên người Eve để vào trong chỗ chúng tôi ngồi. Nó vừa gừ gừ vừa cạ mình vào những người bạn đồng hành là chúng tôi. Con vật đã an ủi chúng tôi vào giây phút chúng tôi hết sức mong mỏi. Con vật sà vào cánh tay tôi, ngụ ý rằng nó hiểu rất rõ nỗi đau của tôi và đã có mặt để an ủi tôi. Nó chẳng còn chút hờ hững nào vốn có của loài mèo nữa.
Và khi con Cameo đi đi lại lại quanh chỗ chúng tôi ngồi, rõ ràng là con vật không còn vẻ lãnh đạm với người bạn đồng hành lâu năm là con Ivy nữa. Nó đã nhiều lần lại gần và liếm mặt con Ivy – một điều mà nó chưa hề bao giờ làm trước đó. Khi tôi vừa ôm con Ivy trong tay, vừa vuốt ve Cameo, tôi thấy Cameo đưa móng vuốt nhỏ bé của mình chạm vô móng chân to lớn của cô chó Ivy. Lạ lùng thay, con Cameo lại cảm thấy mình rất cần vuốt ve con chó già giờ đây đã mù hẳn.
Nhưng con Ivy vẫn còn nghe được. Tôi cảm thấy được an ủi khi nhận ra rằng, trong giây phút cuối đời, lúc nhẹ nhàng thiếp đi mãi mãi, người bạn yêu quí của tôi đã nghe được những tiếng thì thào trìu mến của tôi và tiếng gừ gừ vuốt ve của con mèo Cameo.

N.V

Lòng Trắc Ẩn - Phần 04

Banjo
Một cái túi giấy được bỏ ngoài bậc cửa nhà tôi, trong đó có một con chó săn Đức còi cọc bị ruồng bỏ. Con Banjo đã đến với tôi như thế đó. Hồi đó tôi còn độc thân, khoảng 30 tuổi và đang sống ở nông thôn vì vậy tôi có thể nuôi một con vật cưng mới.
Nhưng nào tôi có muốn? Dạo đó, tôi đã quyết định không nuôi thêm một con chó nào sau khi con Chad – con chó chăn cừu đã ở với tôi 13 năm – mất đi. Con Chad là một con chó rất chững chạc, sống với nó, tôi rất dễ chịu. Bây giờ tôi đang giữ trên tay một sinh vật nhỏ bé, cần phải tốn nhiều thời gian, sức lực và kiên nhẫn. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng chịu những chiếc giầy của mình bị gặm, những chân bàn bị gặm nham nhỏ, vườn bông của mình bị giẫm nát? Liệu tôi có sẵn lòng mất thời gian để dạy dỗ một chú chó?
Những câu hỏi này đã biến mất vào lúc tôi ôm khối lông màu nâu đen vào lòng. Và những năm sau này tôi không hề ân hận về quyết định của mình.
Sau này khi lập gia đình, Sandy – vợ tôi – lại không có cảm tình với con Banjo như tôi. Cô ấy cứ lập đi lập lại với tôi là mình không thích chó. Đối với vợ tôi, con Banjo chỉ làm cho đi văng nhà tôi dính đầy lông chó, thảm đầy bùn và mỗi khi đi xa, chúng tôi lại phải sắp xếp chỗ ăn ở cho nó, như thế thật là phiền toái.
Nhưng tôi đã thấy vợ tôi thay đổi theo thời gian. Đầu tiên là khi cô ấy lỡ tay trộn quá nhiều sữa vào món ngũ cốc của mình và thay vì đổ đi, cô ấy lại đem cho con Banjo ăn. (Vợ tôi cứ liên tục làm điều này mãi cho đến ngày con Banjo mất đi). Sau đó tôi cảm thấy mình không thể chải lông cho con Banjo được nữa, con Banjo và tôi thường xuyên đến chải lông ở tiệm làm đẹp cho súc vật.
Sandy chỉ thật sự yêu con Banjo khi chúng tôi sống với nhau được hai năm. Lúc đó công việc buộc tôi phải xa nhà suốt 10 tuần lễ, cô ấy phải chăm nom con Banjo. Chưa bao giờ mối quan hệ của Sandy và Banjo lại tốt đến như vậy. Vợ tôi và con chó đi đâu, làm gì cũng có nhau. Hai bên đã trở thành bạn của nhau tốt hơn cô ấy tưởng dù rằng con Banjo chẳng hề nghi ngại gì.
Trước đây chưa bao giờ Sandy lại mất thời gian nhiều trong bếp. Tuy nhiên, sau này tôi đã nhận ra Sandy và Banjo vào những buổi tối thường ngồi trong bếp nướng bánh gừng và bánh nướng xốp. Sau đó cô ấy và con chó thường phết kem và mứt do cô ấy làm lên trên mặt bánh và ngồi tựa vào nhau trước lò sưởi thưởng thức bánh, vét sạch hết dĩa. Vì tôi khe khắt hơn trong việc phân biệt đồ ăn của chó và đồ ăn của người, tôi chẳng bao giờ nướng cho con Banjo lấy một cái bánh sinh nhật nào – lúc tôi vắng nhà Sandy và con Banjo lén tôi cùng ăn chung với nhau rất vui vẻ.
Chúng tôi cùng sống với con Banjo được thêm 10 năm rất hạnh phúc. Sau đó, sức khỏe con Banjo bỗng suy giảm. Khi người ta chẩn đoán con vật bị ung thư, cả Sandy lẫn tôi đều đau đớn nhận ra rằng con Banjo đang rời xa chúng tôi.
Trong những tuần lễ tiếp theo đó, chúng tôi rất vui sướng khi còn thấy mặt con Banjo lúc nào hay lúc đó nhưng vẫn không khỏi buồn lòng. Vợ chồng chúng tôi rất lo lắng khi vẻ mặt thân thương của con Banjo báo cho chúng tôi biết là nó cảm thấy không được khỏe. Tuy vậy, chúng tôi không thể nào quyết định thời gian để giúp nó rút ngắn sự đau đớn. Dù đã chuẩn bị tâm lý trước sự việc không tránh khỏi, cái kết cục vẫn làm cho chúng tôi thật đau đớn, thật không dễ dàng chấp nhận. Mọi việc đã diễn ra quá sớm.
Ngày con vật ra đi, nó bước lảo đảo đến gần khi tôi đang khoác áo choàng vào người, Tôi tin là nó đang yêu cầu tôi ở lại. Tôi biết lý do tại sao. Vì vậy, tôi đã giúp nó ra ngoài lần cuối cùng. Sau đó, tôi đã đưa nó vào cạnh lò sưởi và áp đầu nó vào lòng tôi. Chúng tôi đã nói chuyện thật lặng lẽ với nhau về mọi thứ, hệt như buổi nói chuyện cách đây mười năm. Dường như chỉ mới hôm qua thôi, con Banjo còn cuộn tròn trong cánh tay tôi, kêu gừ gừ ra vẻ hài lòng lắm. Dường như chỉ mới tuần rồi, tôi đã giải thích cho nó thêm một lần nữa rằng, nó chỉ nên gặm xương và buông tha cho các món đồ gỗ của tôi. Nếu có điều gì tiếc nuối, tôi chỉ ước rằng mình đã không tỏ ra thông cảm, vị tha và trìu mến hơn với Banjo. Cả hai chúng tôi đang xích lại gần nhau trong lúc này.
Banjo đang bị bệnh. Cuối cùng, nó đã khiến cho tôi cảm thấy lẻ loi khi ngồi giữa phòng khách, tự hỏi sao mười năm qua có thể trôi nhanh đến thế.
Ranh giới giữa sự sống và cái chết mới mỏng manh làm sao. Thật đau lòng khi phải chứng kiến Banjo đang đứng bên lằn ranh này. Tôi như đang cố vớt vát, níu kéo cuộc sống của nó. Dù sao đi nữa, Banjo cũng vẫn là bạn của tôi và tôi chưa sẵn lòng từ bỏ nó. Trong khi những giọt nước mắt lăn dài trên má, tôi chỉ mong sao nó có thể trở về với những ngày tháng xa xưa.
Tôi muốn nó lại ngóng trông tôi tại bậc cửa mỗi ngày và sủa mừng rỡ khi thấy ông chủ trở về nhà như thường lệ. Tôi mong lại thấy nó lăn trong tuyết trên sườn đồi phía sau nhà. Tôi mơ lại được nghe hơi thở đều đặn khi nó đang say ngủ cạnh chân giường. Hơi thở của nó như đang muốn nói: “Đây là một nơi thật ấm áp, yên lành”.
Tôi cứ thế hồi tưởng nhưng Sandy sắp về nhà rồi. Tôi phải chuẩn bị sao cho giờ phút cuối cùng giữa nàng và nó thật nhiều ý nghĩa. Tôi quấn một cái khăn quanh thân mình Banjo, đặt đầu nó ngay ngắn trên chiếc gối nhỏ và để nó nằm yên bình trước lò sưởi.
Khi bước vào nhà qua cửa chính, nhìn mặt tôi, Sandy hiểu thế là con chó yêu dấu đã qua đời. Tôi tin rằng trái tim nàng còn đau đớn hơn tôi nữa.
Chúng tôi ngồi lại cạnh bên xác Banjo một lúc lâu trước khi dằn lòng mang nó vào rừng – nơi nó từng chơi đùa thỏa thích. Chúng tôi chôn nó, phủ những trái thông khô và hoa lên ngôi mộ.
Khu rừng chợt im ắng lạ thường, chỉ còn những ngọn gió luồn qua các nhánh cây mang theo hơi lạnh băng giá của mùa đông. Chúng tôi ngoái nhìn lại một lần trước khi quay bước đi, ngôi mộ của Banjo trông thật bé nhỏ nhưng hình ảnh của nó thật lớn trong lòng chúng tôi.
Nhiều tháng đã trôi qua kể từ ngày chúng tôi đứng trong tuyết và nói lời vĩnh biệt Banjo, tôi vẫn nhớ nó mỗi ngày. Trong những tuần lễ đầy mất mát đó, Sandy và tôi cảm thấy được an ủi phần nào nhờ những tấm bưu thiếp và hoa của bạn bè gởi đến chia sẻ. Ngay cả mấy đứa trẻ hàng xóm – vốn biết tôi chỉ là “bố của Banjo” – cũng chạy đến nắm tay tôi và nói lời chia buồn. Nhờ vậy mà tôi hiểu ra rằng, Banjo đã giúp cho mối quan hệ giữa Sandy và tôi trở nên tốt đẹp trước ánh mắt mọi người.
Tôi cũng nghĩ rằng giữa Banjo và tôi có một mối quan hệ lạ lùng, đáng khắc sâu trong tâm trí. Nhưng mối quan hệ đó chẳng phải là độc nhất vô nhị. Thế giới không vì chúng tôi mà biến đổi. Sự thật đơn giản là chúng tôi thích sống cạnh nhau và đó mới là vấn đề.
Bây giờ, tôi ngồi thừ ra nhìn những cái chén dành cho chó được xếp ngay ngắn trong hộc chạn. Tôi chợt lẩm bẩm: “Mình sẽ không nuôi chó nữa. Mình không thể chịu nổi tình cảnh này thêm một lần nữa”. Nhưng tận đáy lòng, tôi lại hiểu sự việc sẽ khác đi và điều gì sẽ xảy đến khi một chú cún con dễ thương bất chợt xuất hiện ngay ở bậc cửa nhà.

N.V

Lòng Trắc Ẩn - Phần 02

Một chú mèo có tên là rùa
Tôi không lớn lên với mèo hay chó. Có lần chúng tôi cũng nuôi dùm một con chó Dalmatian cho dì dượng tôi đi nghỉ hè. Nếu trước đây mọi việc đều tốt đẹp, chúng tôi đã có một con chó riêng rồi.
Nhưng mọi việc lại không được tốt đẹp. Anh trai tôi không chịu dọn vệ sinh cho chó và chẳng bao lâu, chúng tôi đã vĩnh viễn trở thành ngươì không nuôi một con vật nào cả. Mẹ tôi cũng không hề bận tâm đến việc nuôi con vật nào ở nhà. Hồi còn bé, do bị mèo quào, mẹ tôi rất sợ những con vật nào có quá nhiều chân và đi nhanh nữa. Ba tôi vốn trưởng thành ở thành thị, lại không nuôi một con vật nào. Ông cũng không quan tâm đến chúng lắm.
Nhưng tôi lại lập gia đình với một người yêu mèo. Trong căn hộ sơ sài của mình ở một chung cư không có thang máy tại New York, anh Roy sống rất vui vẻ với nhiều con mèo tuyệt vời. Trong số đó, có một con mèo đi lạc ở tàu điện ngầm. Đối với tôi, những kỷ niệm ưa thích và những kinh nghiệm khác của anh đều quan trọng ngang nhau. Chúng thật lý thú, thậm chí rất hấp dẫn nhưng bản thân tôi lại chưa từng trải qua.
Rồi chúng tôi đã dọn tới Vermont và đã thấy những con mèo trên đất của chúng tôi. Hay chúng đã tìm ra chúng tôi – và đấy thật sự là đất của nó. Chúng là những con mèo hoang dã, sống ở khu vực hoang dã mà không ai biết có tự bao giờ. Chúng tôi đã mở rộng vòng tay đón chúng, đặt tên chúng là Mèo Mama, Mèo Mật ngọt, Herbert và Sylvester; cho chúng đồ ăn, chỗ ngủ ở garage ô tô; đưa chúng đi bác sĩ thú y khi chúng bệnh. Bây giờ, chúng tôi nhận ra mình nên chăm chút những con mèo đó.
Lần đầu tiên, chúng tôi bắt gặp con mèo Turtle đang chạy lúp xúp theo mẹ nó trong một đoàn mèo. Trong đoàn mèo này có rất nhiều con mũm mĩm từ những bụi mâm xôi chạy ra, chúng băng qua lối đi, lao về phía rừng thông. Năm sau đó, con vật lại xuất hiện, cũng lớp lông nhị thể đen vàng không thể nhầm lẫn được. Một năm sau đó nữa, con vât thường xuyên ghé thăm chúng tôi. Tôi đã đặt tên cho nó khi tôi chẳng thích nó. Con vật có tính khí dễ bị kích động, hay tự đề cao mình, ăn đồ ăn của con Mèo Mật ngọt. Hình như tên Turtle rất hợp với một con mèo nhị thể đen vàng, đặc biệt đây là con mèo tôi không thích.
Tôi đã đọc sách về những chú mèo hoang dã. Dư luận chung cho rằng con người không thể thuần hóa được một chú mèo hoang nếu ngay từ nhỏ con vật đã không quen với người. Nhưng không ai nói được con Turtle đã trở nên ngày càng thoải mái với chúng tôi. Con vật thường ngã vật người ra, mời mọc chúng tôi vuốt ve cái bụng trắng đáng yêu của nó. Vào những tối mùa hè, nó la cà cạnh những người khách của chúng tôi, nó lê la hết đùi người này đến người khác. Sau đó, ngay khi mọi người đã ra về hết, cô mèo lại lẩn vào màn đêm.
Liệu chúng tôi có thể mang con vật vào nhà không? Bỗng nhiên, triệu chứng dị ứng với mèo của anh Roy trở lại. Nhưng con vật dù sao cũng không muốn vào nhà. Tôi tuyên bố như vậy.
Hay là cô mèo muốn vào nhà? Chỗ làm việc của tôi ở trên lầu hai nhìn ra sườn đồi phía nhà chúng tôi. Nhiều lần tôi bỏ dở công việc đang làm để nhìn ra cửa, tôi thấy con Turtle đang chằm chằm nhìn tôi, cặp mắt màu vàng của nó mở to, khuôn mặt nhỏ bé đáng yêu của nó lốm đốm đen và vàng nâu chỉ cách mặt tôi chưa tới nửa mét. Thường con vật nói chuyện với tôi trước khi tôi thấy mặt nó.
Văn phòng của chúng tôi đang xây một chái mới và một hôm, cô mèo Turtle đã tìm ra một con đường khác đến văn phòng tôi. Nó đứng từ cửa sổ hông, chăm chú nhìn tôi. Những dấu chân đầy sình của nó ghi dấu trên giấy dán nóc nhà từ cửa sổ chỗ tôi làm việc đến chiếc cầu thang cây của người thợ đang xây ở đầu mái nhà. Tôi thật sự bị ấn tượng bởi điều này.
Cô mèo đã dựng cho mình một cái tổ trong chái nhà mới đang xây. Nó làm ổ trong cái hộp mở nắp mà người thợ mộc đã ném cái áo thun đẫm mồ hôi của mình vào. Cô mèo cảm thấy quá thoải mái ở đây đến nỗi nó hầu như không thèm ngẩng đầu chào khi chúng tôi vào kiếm nó. Anh Roy đã bắt đầu phải chích thuốc dị ứng.
Khi chái nhà mới được xây xong, con Turtle lại một lần nữa ra ngoài. Những lần kế tiếp khi cô mèo nhìn vào bàn làm việc của tôi, anh Roy lại mở tấm màn cửa sổ, đợi con vật leo vào và mang nó xuống lầu. Con vật kêu lên ầm ĩ. Con vật rảo bước qua phòng khách, chõ mũi vào tất cả những nơi nhỏ bé: một cái tủ, đáy của kệ sách nhỏ. Con vật có vẻ làm ngơ tất cả chúng tôi và thật sự chúng tôi chẳng nói chẳng rằng, cứ như hến vậy. Sau một vài giây, anh Roy đưa nó ra ngoài.
Sau đó cũng cùng trong ngày, cô mèo lại ngồi gần anh Roy. Anh trở dậy, đi vào bếp. Con vật chạy đến cửa trước chồng tôi và giành vào bên trong. Con vật chẳng bận tâm mình có thể lại bị đưa ra ngoài. Tôi cũng chẳng bận tâm. Có lẽ cô mèo muốn ở trong nhà chúng tôi (bây giờ tôi đã thừa nhận khả năng này) nhưng tôi có muốn con vật ở trong nhà không? Liệu một con mèo hoang, thậm chí là rất thân thiện, có xé nát mọi thứ thành mảnh vụn? Liệu con vật có cào khiêu khích chúng tôi dù là nhẹ nhất? Liệu con vật có kêu ngao ngao suốt đêm?
Giây phút quyết định đã tới sau khi tôi đi ra khỏi nhà một vài hôm. Hầu hết những ngày tôi vắng nhà, con Turtle cứ nằm ở khúc cua quẹo lối xe hơi chạy vô nhà tôi. Nhưng chỉ cần tôi về nhà 15 phút, con vật lại có mặt ở cửa bếp! Khi anh Roy mở cửa để mang đồ ăn cho nó, cô mèo đẩy anh qua bên và lao vào nhà bếp hướng thẳng về chỗ tôi. Lần này con vật chẳng chút tò mò về ngôi nhà, nó cũng chẳng quan tâm đến đồ ăn. Nó nhảy lên đùi tôi, nằm gọn lại trong người tôi và kêu rừ rừ mà cách xa sáu mét người ta còn nghe thấy. Cô mèo đã rất nhớ tôi! Cô mèo đã rất nhớ tôi! Chuyện là như thế. Tôi đã sẵn lòng chia sẻ nhà mình với nó.
Chẳng bao lâu sau, nhà tôi đã thành nhà của Turtle khi con vật tìm ra được chỗ tốt nhất trên giường của chúng tôi (nó nằm dọc giữa vợ chồng tôi) và góc nhà có ánh mặt trời chiếu sáng nhất trong phòng khách. Cô mèo có nhiều điều phải học. Nó học cách nằm ngang trong giỏ của tôi. Nó biết cách đánh thức chúng tôi dậy để cho nó ăn sáng, cách đuổi những chú chuột con trốn trong nhà vào mỗi mùa thu khi những đợt không khí lạnh làm xáo động kế hoạch của chúng. Nó học cách buông ra hàng loạt những câu phàn nàn khi tuyết rơi. Nó biết canh chừng tôi tắm được an toàn. Nó biết cách đặt người mình lên ngay chính xác trang sách có thể tôi đang đọc, hay đang đánh máy, hay đang viết. Một cái hộp đựng mèo ư? Chỉ cần một cái để cắn. Con vật cắn cái hộp chỉ chừng nửa ngày.
Tôi cũng có nhiều điều phải học nữa, để gạt bỏ từ những thành kiến của mẹ tôi. Nhưng với sự giúp đỡ của Turtle, con mèo này đã nhanh chóng thành bạn đồng hành yêu qúi của tôi, tôi đã học được sự dịu dàng, khôn ngoan, sự quan tâm và thương yêu. Roy rất vui khi thấy tôi yêu con mèo này như thế nào và cách con vật yêu lại chúng tôi. Turtle đã trở thành chủ đề của nhiều chương sách trong cuốn sách tôi viết về những con mèo hoang. Tôi ước gì cô mèo hiểu được những món quà và thư từ con vật nhận được từ những độc giả yêu nó. Tuy vậy, anh Roy lại tin rằng con vật hiểu mọi điều chúng tôi nói với nó hay thậm chí anh ấy còn đoan chắc con vật có thể đọc được ý nghĩ của chúng tôi. Có lần, đang chỉ nghĩ về nó thôi, anh Roy bỗng giật mình nghe tiếng rừ rừ của nó ở cái ghế bên cạnh.
Con Turtle của chúng tôi biết rất nhiều. Ở khắp nơi trên quần đảo Anh, người ta coi việc một con mèo nhị thể đen và vàng bước vào nhà là một điềm may. Con mèo nhị thể này được coi rất đặc biệt. Nhưng con Turtle đặc biệt hơn tất cả mọi điều đặc biệt khác. Đây là con mèo tự cao ngọt ngào nhất, thông minh nhất mà chúng tôi từng biết. Con vật chẳng bao giờ làm hại ai. Chẳng bao giờ nó kêu chúng tôi chú ý đến nó khi chúng tôi bận bịu với công việc hay việc nhà. Cô mèo rất đặc biệt. Tôi biết điều này. Roy biết điều này và Turtle biết rằng chúng tôi biết điều này.
Cô mèo đã sống với chúng tôi được mười năm đầy hạnh phúc, mãi cho đến khi căn bệnh thận cướp đi mạng sống của nó. Con vật được chôn ngay cua quẹo lối xe hơi chạy vô nhà, dưới một tảng đá có màu hệt như màu lông nó. Chúng tôi thấy tảng đá này trong nhà bếp.
Tôi cầu phúc cho ngày cô mèo Turtle đánh liều đến ở với chúng tôi. Cô mèo biết nhiều điều quan trọng hơn tôi. Những điều nó biết đủ để ngày hôm đó con vật nhảy vào nhà tôi, lên đùi tôi vào tâm hồn tôi.

N.V

Lòng Trắc Ẩn - Phần 01

Cô chó Shorty
Mọi vật dường như xảy ra chưa lâu lắm nhưng đã 19 năm trôi qua kể từ khi một trái banh nhỏ mang niềm vui bước vào đời tôi và làm thay đổi nó vĩnh viễn.
Lúc đó, tôi đang làm cho một hãng điều hành bất động sản ở San Francisco và được yêu cầu chuyển tới Texas để theo dõi một tòa chung cư ở đó.
Vợ chồng tôi đến chưa được bao lâu thì người bảo vệ toà nhà đã khám phá được một con chó lai trong căn hộ bỏ trống gần đây. Con vật bị nhốt trong một cái tủ có khóa ngoài không được ăn uống gì cả. Hai vợ chồng người bảo vệ không có khả năng nuôi cô chó này vì thế cô vợ Linda của tôi đã hỏi liệu vợ chồng tôi có thể nhận con vật:
– Chỉ một thời gian thôi nhé! – Tôi lưỡng lự đồng ý nhưng sau đó tôi lại thêm: – Chỉ nuôi một vài hôm thôi!
Tôi đặt tên cô chó là Shorty. Con Shorty bám theo tôi không thể nào ngờ được. Con vật đi theo tôi khắp mọi nơi. Nó theo sát tôi còn hơn hình và bóng và khi cô chó nằm bên tôi trên trường kỷ hay trong giường, bạn không thể nào chen giữa chúng tôi được dù chỉ là đồng mười xu. Thật nhanh, hai vợ chồng tôi hiểu là “một chút” sẽ là cả đời.
Khi đã hết hạn ở Texas, chúng tôi quay trở lại San Francisco. Con Shorty phải thích nghi với cuộc sống của một con chó sống ở nội thành. Chúng tôi thường đưa con vật ra công viên, đi dạo quanh thành phố nhưng chính những lúc tôi và cô chó chạy trên những cánh đồng cùng với nhau để thưởng thức cuộc sống, mọi việc khác hẳn. Đó mới thật sự là thời gian ưa thích của chúng tôi.
Ở San Francisco, con Shorty đã học chơi bóng chày. Cô chó hoàn toàn mê mẩn môn chơi này. Linda ném bóng, tôi đánh bóng và con chó chặn và ném trả bóng. Con vật thường đón bóng trong không khí hay hầu như chỉ nhảy lên một lần là nó đón được bóng; nó chạy lon ton đến chỗ Linda đưa bóng cho cô ấy và sau đó chạy ra khu vực xa cửa thành, sủa vang lên để báo cho chúng tôi biết nó đã sẵn sàng chờ đợi đón thêm bóng nữa.
Khi thời gian trôi qua, vợ tôi muốn có một con chó hết lòng tận tụy với cô ấy hệt như con chó Shorty với tôi vậy. Vì thế một hôm chúng tôi đã đi tới Ủy ban Ngăn ngưà Hành vi độc ác với súc vật. Có một con chó xục lai đang ngồi ở phía sau cái chuồng. Con vật này lớn hơn con Shorty một chút nhưng có màu lông hệt như vậy. Chú chó có cặp mắt nâu rất lớn, có vẻ nó van lơn được dẫn về nhà chúng tôi. Và chú chó đã được toại nguyện.
Con Shorty và Buddy đã chấp nhận nhau ngay từ buổi đầu gặp gỡ và người ta tưởng chúng là anh em trong nhà.
Sau đó một vài năm, chúng tôi đã thuê một căn nhà nhỏ có hàng rào và một phòng dành cho Shorty và Buddy. Đến lúc đó, do đã lớn tuổi, Shorty bắt đầu rụng răng, lưỡi của nó cứ đưa về một bên. Hầu như nó không còn nhìn thấy hay nghe thấy gì nữa.
Nhưng con Buddy đã trở thành mắt và tai của nó. Chú chó biết khi nào Shorty ra đến cửa trước và sủa vang lên, đó là cách con Shorty thường làm khi nó muốn đi ra ngoài. Nhưng bây giờ cô chó Shorty cần sự trợ giúp và Buddy biết rõ mình phải làm gì. Chú chó thường đưa mõm ngậm tai của con Shorty và nhẹ nhàng dẫn con chó bước xuống những bậc thang ra đến bãi cỏ. Đến đây con Buddy thường nằm xuống ngắm nhìn con Shorty đi lại đánh hơi mọi thứ. Khi có vẻ sẵn sàng bước vào nhà, con Shorty thường đứng bất động, sủa thêm một lần nữa và con Buddy lại đến chỗ nó, ngậm tai con vật và đưa nó lên các bậc thang về giường của mình.
Một buổi tối cánh cửa để ngỏ, không hiểu sao con Shorty đã tự mình mò xuống các bậc thang chẳng có con Buddy hộ tống. Cô chó đã lăn từ trên cao xuống đất. Tôi mang nó vào giường và nó nằm đấy một ngày, miệng cứ rên rỉ hệt như cách đây 17 năm khi nó còn trong cái tủ bị khóa. Tôi bảo vợ tôi rằng hình như đã đến lúc rồi.
Linda biết tôi muốn nói gì, cô ấy gật đầu. Đêm đó, vợ chồng chúng tôi đã đưa con Shorty đến chỗ bác sĩ thú y và như chúng tôi nghĩ, cô bác sĩ ấy chẳng có thể giúp gì được. Cô bác sĩ giúp chúng tôi cảm thấy dễ chịu hơn bằng cách yêu cầu chúng tôi nghĩ tới mọi điều tốt đẹp mà con Shorty đã mang đến cho cuộc sống của vợ chồng tôi. Tôi sẽ luôn biết ơn cô chó về điều đó.
Tôi quyết định ngồi lại với con Shorty. Bác sĩ để chúng tôi ngồi lại với nhau trong phòng và tôi chỉ đứng đó vỗ về con Shorty. Tôi nghĩ là cả hai chúng tôi đều cảm thấy dễ chịu khi ở cùng với nhau. Khi mọi việc kết thúc, tôi đã ẵm nó trong tay, không hề muốn con vật ra đi.
Linda cùng tôi thiêu xác con Shorty, ngày nay chúng tôi để tro và hình nó ngay trên đầu tủ đựng bát dĩa trong nhà.
Khi đến lúc ra đi, tôi yêu cầu rằng mình cũng được thiêu xác. Vợ tôi hứa cô ấy sẽ rải tro của tôi cùng với tro của con Shorty trên cánh đồng lớn nhất mà cô ấy có thể tìm thấy.
Lúc đó Shorty và tôi sẽ lại cùng nhau chạy một lần nữa.
N.V
Chú thích của người biên tập bộ sách nguyên bản:
Larry Monk đột nhiên qua đời chỉ ba tuần sau khi viết câu chuyện này. Thể theo nguyện ước của anh, Linda Monk đã rải tro của cô chó Shorty cùng với tro của chồng cô ở một cánh đồng mà họ rất thích đến.

[Image]