Hiển thị các bài đăng có nhãn Lời xin lỗi muộn màng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lời xin lỗi muộn màng. Hiển thị tất cả bài đăng

P02: Cây cau của mẹ

Mẹ tôi không phải dân nghiện trầu. Chỉ những ngày có đình đám ma chay, tết lễ mẹ mới ăn vài miếng cho đỏ môi, ấm bụng cùng mấy bà bạn già hàng xóm cho vui. Ấy vậy mà hai cây cau lắm buồng sai trái nổi tiếng khắp làng cao tắp ngay trước sân nhà đã được bố mẹ tôi trồng ngay đúng dịp hai thân làm lễ cưới.
Khi tôi được sinh ra thì hai cây cau đã cao chót vót. Những đêm hè lồng lộng gió nồm nam, khi vầng trăng lấp ló lũy tre làng mẹ thường buộc võng vào hai thân cau để ru tôi. Hương hoa cau ngan ngát cùng giọng hát à ơi của mẹ cứ thế đưa tôi vào giấc ngủ. Tuổi thơ tôi lớn lên bên gốc cau với đầy kỷ niệm. Những hoa cau trắng xanh như những hạt gạo tám xoan thơm nức rụng đầy mặt đất mẹ thường quét gom lại mỗi sớm cho tôi cùng lũ bạn chơi trò bán hàng, nấu cơm.  Mỗi cái mèo cau mẹ trẩy xuống là mỗi con thuyền ngoạn mục cho tôi cùng lũ bạn chơi trò chở “gạo”, chở “khách” sang ngang trên chiếc ao nhà.
Tôi càng được mẹ cưng hơn sau những ngày bị sốt nặng, đôi tay tự dưng buông thõng như hai sợi dây đeo bên vai, khi vừa bốn tuổi. Miếng cơm đưa vào miệng ngày ngày mẹ cũng phải bón cho tôi. Để dỗ dành tôi ăn cho nhiều, cứ chiều chiều mẹ lại cho tôi ngồi vào chiếc tàu cau mới rụng kéo đi quanh sân. Tôi thích thú cười như nắc nẻ. Và cứ thế cả chén cơm lớn mẹ đã cho tôi ăn hết veo lúc nào chẳng hay. Những ngày hanh heo cuối đông, bố thường trẩy xuống những buồng cau sai trĩu quả, mẹ ngồi tỉ mỉ bổ ra phơi khô. Vừa làm mẹ vừa lẩm nhẩm: “Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”. Và cứ thế những miếng cau bổ ra được mẹ xếp đều tăm tắp trên chiếc mẹt theo hình vòng tròn đồng tâm. Vừa chăm chú ngồi xem mẹ làm tôi vừa ngó ngoáy “bí mật” dùng chân xếp thử mấy miếng xem sao. Mẹ quay lại bắt gặp. Tôi sợ quá rụt chân lại. Mẹ cười: “Ờ, con làm bằng chân cũng được đấy chứ! Giúp được mẹ thế thì còn gì bằng”. Được mẹ ưng thuận, động viên, tôi càng làm càng say sưa thích thú. Khi mẹt cau xếp đã gần xong thì bất ngờ cái bàn chân trái của tôi không biết vụng về luống cuống thế nào đã đụng vào khiến cả mẹt cau xếp công phu là vậy bỗng bị xô nghiêng ngả không còn ra hình thể gì. Tôi sợ hết hồn, đứng vội dậy định bỏ trốn. Vừa lúc mẹ quay lại nhận ra, vội ôm tôi vào lòng âu yếm xoa đầu: “Có gì đâu con. Vạn sự khởi đầu nan mà. Người ta làm bằng tay còn khó huống hồ con làm bằng chân. Có làm, có hỏng, có sửa mới có biết. Làm cái gì cũng phải kiên trì mới thành con ạ!”.
Không ngờ cái trò chơi xếp cau cùng lời an ủi ấy của mẹ đã mở cho tôi một trời hi vọng. Nó thật sự là kỷ niệm ngọt ngào ghi dấu mốc mở đường cho những tháng ngày sau đó tôi dùng đôi chân thay đôi tay với bao nhọc nhằn, gian khó từng bước viết lên cuộc đời mình cho đến hôm nay.
Nhớ những ngày tôi mon men đến lớp vỡ lòng xem lũ bạn học, mẹ tìm đến dẫn về trên tay không quên cầm chiếc quạt mo che nắng cho tôi. Khi tôi được nhận vào lớp, người mừng nhất là mẹ. Những ngày tôi miệt mài dùng chân kẹp cục gạch tập viết những nét chữ đầu tiên trên khoảng sân nhà; mỗi khi mồ hôi nhễ nhại là mỗi khi thấy mẹ ngồi bên cạnh phe phẩy chiếc quạt mo. Lúc bắt đầu tập viết được trên vở, để quyển vở khỏi dịch chuyển và khỏi lem bẩn mẹ lại cắt vuông rất khéo chiếc quạt mo thành chiếc bìa cứng cho tôi lót chân mỗi lần viết. Những buổi học chiều, nhà không có đồng hồ, để tôi khỏi lo đi học muộn mẹ canh chừng rồi dùng vôi đánh dấu một cái vạch trên sân, cứ khi cây cau đổ bóng đến đó là đúng lúc mẹ âu yếm vui vẻ đeo túi sách lên vai cho tôi đến trường.
Khi học lên các lớp trên, những đêm học khuya bên chiếc đèn dầu tù mù, vì viết bằng chân nên mắt tôi phải nhìn xa rất khó khăn. Thấu hiểu điều đó mẹ đã có sáng kiến cắt mo cau rồi khâu đính lại và dùng vôi quét mặt trong cho trắng làm thành cái chụp đèn rất tiện ích để tôi học đêm. Có những ngày phải học cả hai buổi, thương tôi đi về đường xa vất vả mẹ cẩn thận nắm cơm vào chiếc mo cau đã được lột mỏng rất mềm để tôi mang đến lớp ăn trưa. Mùa đông xứ Bắc rét như cắt da thịt, áo lạnh lại hiếm, tôi nhớ mãi chiếc áo bằng mo cau lột mỏng được mẹ khâu rất công phu và mặc chen vào giữa hai lần áo cho tôi mỗi sớm đến trường. Thời chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhiều đêm đi học sơ tán về khuya, giữa đường gặp mưa lớn là thể nào tôi cũng được mẹ đón. Ngoài áo tơi, nón lá bao giờ mẹ cũng xách trên tay chiếc đèn chai được bao quanh thêm cho gió khỏi làm tắt bằng một chiếc mo cau được cuộn lại có một cửa sổ đủ cho ánh sáng soi về phía trước để nhận đường.
Nhớ những ngày tôi mải mê ôn luyện để chuẩn bị cho kỳ thi học sinh giỏi môn toán lớp 7 (lớp 9 hiện nay) toàn miền Bắc, cả những ngày ôn thi tốt nghiệp cấp III, đêm đêm dù khuya mấy bao giờ quay lại tôi cũng giật mình nhận ra phía sau: mẹ đang lặng lẽ ngồi cầm quạt mo phe phẩy xua  nóng và muỗi cho tôi tự lúc nào.
Ngày tiễn tôi đi học đại học mẹ không quên bỏ vào túi hành trang của tôi hai chiếc quạt mo được “gia công” thêm cái tay cầm trông rất ngộ. Mẹ bảo: “Con phải dùng chân nên mẹ phải làm vậy để con quạt cho dễ. Chỗ trường con học sơ tán nghe đâu là nơi rừng rú nên rét cũng ghê mà nóng cũng sợ lắm đấy! Mẹ chẳng gần để giúp con được. Con ráng tự khắc phục vậy”.
Tốt nghiệp đại học tôi được về quê dạy học và lập gia đình khi mẹ đã ở tuổi gần 70. Tuổi cao sức yếu, mẹ lâm bệnh nặng. Cứ rời trường về đến nhà là tôi hối hả đến ngay giường mẹ. Vẫn chiếc quạt mo ngày nào tôi lặng lẽ dùng chân quạt cho mẹ. Rồi đến một ngày, mẹ cố mở mắt nhìn tôi. Tôi nghẹn ngào nhận ra nơi khóe mắt mẹ ứa ra hai vệt nước trước khi mẹ trút hơi thở cuối cùng. Cũng năm đó một trong hai cây cau nhà tôi tự dưng chết đứng. Bố liền ngả xuống bổ đôi nạo ruột dùng làm máng hứng nước mưa. Những dòng nước mát ngọt ngào từ nơi chiếc máng ấy như vẫn còn chảy mãi trong tôi cho đến tận bây giờ.          
             
NGUYỄN NGỌC KÝ ( TuoiTre )

P03: Vết sẹo

Mẹ ruột chúng tôi mất sau khi sinh em trai út của tôi. Chị Như, chị hai tôi, lúc đó mới lên mười. Tôi, đứa con gái thứ hai, lên tám ốm quặt quẹo. Sau nữa, thằng Thành, năm tuổi, tròn như củ khoai ngơ ngác đi tìm mẹ suốt ngày.
Hai năm sau cha tôi tục huyền với người phụ nữ con nhà gia thế, một phụ nữ đẹp mới 27 tuổi. Chúng tôi gọi người này là “má”. Cha đi làm từ sáng đến tối, giao phó toàn bộ việc chăm nom con cái cho má tôi. Má làm trăm thứ việc không mấy khi ngơi tay. Chị em tôi no đủ, sạch sẽ, nhà cửa chúng tôi gọn gàng, bữa cơm dọn lên lúc nào cũng nóng sốt.
Cha tôi chung sống với má sau được ba năm thì đau nặng rồi mất. Lúc sắp ra đi, cha không còn nói được chỉ nhìn má tôi rồi khóc. Má lúc đó trẻ quá, đẹp quá lại chẳng phải má ruột của chúng tôi...
Cha vừa nằm xuống được mươi ngày đã có người đến đòi xiết nhà, xiết đồ. Gia đình nhà má khăng khăng bắt má về gả chồng. Rồi một ngày kia má kêu bán nhà, trả hết nợ rồi lặng lẽ dắt díu chúng tôi đi. Đó là năm 1978. Chúng tôi ở đậu nhà người chị họ xa của má, gọi là dì tư Tím. Dì làm nghề ướp cá, bán cá, dì góa bụa và nghèo khó. Căn nhà của dì không khác hơn cái chòi canh dưa là mấy, vậy mà còn chứa thêm má và bốn đứa chúng tôi. Dì tư Tím đem biếu ba con gà mái dầu cho một người quen để xin cho má một chân hộ lý trong bệnh viện đa khoa.
Hằng ngày, má dậy từ 3g30 sáng, vào bệnh viện nấu nước, châm nước cho những bệnh nhân dậy sớm rửa mặt, pha sữa, pha trà để kiếm thêm chút tiền còm mua sách vở cho chị em tôi đi học. Sáu giờ má tất tả về nhà lo cho chúng tôi ăn sáng và đến trường. Bảy giờ má trở lại bệnh viện lau cầu thang, lau sàn, cọ rửa nhà vệ sinh, thay trải giường cho người bệnh, gom rác đem đi đốt… Sau năm giờ chiều, má còn nhận giặt thuê quần áo cho những bệnh nhân khá giả. Đến tám giờ tối má mới về đến nhà, mệt rã rời.
Hôm nào mưa gió má về sớm hơn. Má mua về cho chị em tôi mỗi đứa một trái bắp nướng hay một túi đậu nành rang thơm giòn. Mấy chị em nằm bên má trên một manh chiếu rách, nghe má kể chuyện đời xưa. Thằng út Tài sợ lạnh cứ ôm chặt má mà khen sao má ấm quá. Thằng Thành nhõng nhẽo đòi má gãi lưng. Cũng có khi má dạy chúng tôi những bài hò, bài vè để cả nhà thành một “dàn đồng ca” rất ăn ý, rất vui nhộn, mặc ngoài kia gió thổi mưa tuôn…
Mỗi năm vào ngày giỗ mẹ tôi, má làm một mâm cơm tươm tất. Rồi má thắp mấy nén nhang thơm, gọi hết bốn chị em tôi lại bên bàn thờ mà nói: “Đây là mẹ ruột của các con, người đã sinh ra và nuôi nấng các con. Tuy mẹ các con mất rồi nhưng ở trên trời mẹ các con vẫn luôn phù hộ cho các con mạnh khỏe”. Vào ngày giỗ ba, má cũng làm như vậy. Ngày ấy cũng như mãi tới bây giờ cũng vậy, tôi vẫn tin ba mẹ tôi ở trên trời nhìn thấy chúng tôi.
Có một sáng người ta đưa má về. Chân má bị phỏng nước sôi do một bệnh nhân chạy vấp vào má. Vết phỏng rất lớn. Do ăn uống thiếu thốn, sức đề kháng yếu nên chỗ phỏng trên chân má rất lâu không lành, cứ sưng lên đau nhức. Má mất ngủ nhiều, ốm rạc như con cò. Chị hai khóc, năn nỉ má cho đi đổ nước thay má mà má không cho đi. Rồi má nén đau, cố lê chân đi làm trở lại. Về sau vết bỏng ở chân má làm sẹo, một sẹo lồi nhăn nhúm chạy từ cổ chân đến hết mu bàn chân trái. Dáng má đi không còn tự nhiên nữa.
Dì tư Tím mua được một căn nhà ở gần chợ, bán rẻ căn nhà lá cho má con tôi. Năm đó chị hai tôi thi đậu vào Trường cao đẳng Sư phạm Cần Thơ. Thương má cực nhọc, chị định bỏ học đi làm thuê. Má cương quyết không cho. Chưa bao giờ má cương quyết như vậy. Thắp nén nhang trên bàn thờ ba, má khấn (cốt cho chị hai nghe): “Con gái lớn của mình định bỏ học. Khi về nơi chín suối, em biết nhìn anh sao đây…”.
Chị hai khóc, xin lỗi má rồi chấp nhận đi học. Hai năm sau tôi cũng vào đại học và cũng được má sắp soạn vali quần áo cho tôi rồi đưa đi. Mở cái vali ra nhìn mà thương má đứt ruột: ngoài quần áo, má còn bỏ vào kim chỉ, dầu gió, tem thư, bông băng thuốc đỏ, thuốc cảm… Dường như má có thể gói trọn sự thương yêu của má vào trong từng thứ một. Bốn năm, chị em tôi ra trường lênh đênh tìm việc thì cũng là lúc thằng Thành vào Đại học Luật TP.HCM và năm sau nữa là thằng Tài vào Đại học Y Cần Thơ. Làm sao đong được sự vất vả, cực nhọc của má lúc ấy. Lưng má còng đi, tóc đã lốm đốm bạc, da tay chai sần.
Nhiều năm trôi qua má lần lượt dựng vợ gả chồng cho ba đứa con lớn. Thằng Tài vẫn ở với má và chưa có gia đình riêng. Giờ nó là bác sĩ ngoại khoa của bệnh viện mà xưa má làm hộ lý. Nó tâm sự rằng hễ đi trực đêm mà nghe tiếng rao “nước sôi đây” là giật mình thảng thốt tưởng như tiếng má, nghẹn thắt cả lồng ngực. Những ngày rảnh rỗi, chị em tôi dẫn lũ con về với má cho má vui. Đám trẻ quấn quít với má không rời nửa bước. Đứa nhổ tóc sâu, đứa bóp tay, đứa bóp chân cho bà. Một lần bé Du con tôi xoa vào vết sẹo trên chân má mà nói: “Bà ngoại ơi, con bị phỏng tay có một chút đã đau ghê. Ngoại phỏng nhiều vậy chắc là khiếp lắm…” Má tôi cười: “Lâu quá, ngoại quên mất rồi”.
Một chiều mưa tôi về thăm má, nằm bên má tâm sự chuyện chồng con. Mưa ầm ào, mưa tầm tã, tôi kêu lạnh má liền kéo mềm đắp cho tôi, tôi thì lại đắp cho má y như lúc tôi còn nhỏ ngủ chung với má vậy. Chân tôi lạnh tôi tìm hơi ấm nơi chân má. Tôi chạm vào vết sẹo trên cổ chân má, cái vết sẹo đã thành thân thuộc với tôi vậy mà tự nhiên tôi rơi nước mắt. Nghĩ lại, tôi có chồng có con, vợ chồng tôi luôn quấn quít đầm ấm… Còn má, má chỉ được hạnh phúc làm vợ trong ba năm lẻ. Trong những năm tháng dằng dặc sau này, chắc cũng có lúc má khát khao một hạnh phúc riêng tư, cũng có lúc má cô đơn, mệt mỏi mà không có ai chia sẻ. Má ơi, sự lựa chọn của má sao nghiệt ngã quá vậy!
Đã bao lần má kể cho các con tôi nghe những câu chuyện cổ tích về công chúa, về hoàng tử, về các cô tiên xinh đẹp… Một ngày kia con tôi lớn lên, tôi sẽ kể cho các con tôi nghe về “Bà Tiên” của chị em tôi, bà tiên tóc bạc, dáng đi hơi khập khiễng vì một vết sẹo dài… Truyện cổ tích má viết cho chúng tôi bằng cả sự nhọc nhằn, sự đau đớn, bằng nước mắt, mồ hôi và bằng cả cuộc đời của má.      
LÊ THÚY BẢO NHI

P04: Người đã sống cùng tôi trong lồng

Tôi may mắn được sinh ra trong gia đình khá giả, lại là con trai độc nhất nên từ nhỏ đã được nâng niu cưng chiều như một báu vật. Mọi sinh hoạt của tôi từ ăn uống đến học hành đều có người phục vụ.
Vì đã quen được cưng chiều, cung phụng nên càng lớn tôi càng ỷ lại, chỉ lo ăn chơi lêu lổng mà chẳng chịu học hành. Năm vào cấp III, tôi bị xếp vào dạng học sinh cá biệt, nhiều lần bị nhà trường cảnh cáo và mời gia đình lên làm việc vì những trò quậy phá. Nhưng tôi vẫn chứng nào tật nấy. Cuối cùng, gần cuối năm lớp 11 tôi bị đuổi học.
Từ đó tôi càng hư hỏng, suốt ngày tụ tập lêu lổng với những đứa chẳng ra gì, không biết tự lúc nào tôi đã vướng vào ma túy - thứ bột trắng ma quỉ ấy. Lúc đầu chỉ vì những lời khích bác của bạn bè và thỏa mãn tính hiếu kỳ, dần dần tôi đâm ra nghiện. Tiền bạc bao nhiêu cũng không đủ thỏa mãn những cơn ghiền của tôi, đợi mọi người trong nhà sơ hở là tôi chôm đồ đem đi bán, từ những món có giá trị nhỏ đến lớn. Chôm đồ nhà không đủ tôi chôm cả đồ của hàng xóm, nhiều người nóng giận đến nhà chửi rủa. Mẹ tôi vừa phải năn nỉ người ta vừa phải bồi thường tiền. Từ hàng khá giả, gia đình tôi lâm vào cảnh túng quẫn, nợ nần chồng chất vì tài sản trong nhà cứ lần lượt đội nón ra đi theo tôi.
Những lúc tỉnh táo nhìn mẹ đau khổ, ba tức giận, tôi hối hận lắm, nhưng khi lên cơn đói thuốc tôi mất hết nhân tính và bằng mọi cách để có được tiền. Tôi như con thiêu thân trót say ánh đèn. Không biết bao nhiêu lần tôi ra vào trại cai nghiện, cứ về nhà được vài tháng là tôi lại tái nghiện. Riết rồi mọi người bỏ mặc tôi, đi đến đâu ai nấy đều xa lánh, cảnh giác và nghi ngờ, chỉ có mẹ là vẫn kiên trì gần gũi, khuyên bảo tôi.
Lần cuối cùng trong đợt truy quét tệ nạn xã hội, tôi bị công an phường bắt định đưa vào trại cải tạo. Mẹ chạy ngược chạy xuôi làm giấy bảo lãnh cho tôi về cai nghiện tại nhà. Ba tôi và các chị đều phản đối kịch liệt quyết định của mẹ vì cho rằng “nó đã hết thuốc chữa”. Lúc tôi về nhà, mẹ đi đặt ngay một... cái lồng sắt để tôi sống trong đó suốt thời gian cai nghiện. Mẹ nói trong nước mắt với tôi: “Lần này mẹ sẽ ở bên cạnh để giúp con. Mẹ tin tưởng con nhất định sẽ vượt qua”.
Nói là làm, mẹ chui luôn vào cái lồng sắt đó ở với tôi, nhờ ba bên ngoài khóa ống khóa lại. Mọi sinh hoạt ăn uống, tiểu tiện đều trong phạm vi tù túng đó. Những ngày đầu tôi vật vã với những cơn đói thuốc, mẹ lúc nào cũng ở bên cạnh tôi xoa bóp, an ủi. Khó khăn rồi cũng trôi qua, ngày tôi hoàn toàn cắt được cơn và ra khỏi lồng sắt thì mẹ cũng bơ phờ, hốc hác. Nhìn mẹ xác xơ, ý chí đoạn tuyệt với ma túy trong tôi càng mạnh mẽ, tôi quyết định chặt một lóng tay trỏ để tự thề nguyện sẽ không bao giờ tái nghiện.
Thỉnh thoảng bị bạn xấu rủ rê tôi muốn xiêu lòng, nhưng khi nhìn vào bàn tay thiếu mất một lóng, nhớ lại những giọt nước mắt của mẹ, tôi lại thức tỉnh. Sợ tôi có thời gian rảnh sẽ sinh ra chuyện này chuyện nọ nên mẹ đóng tiền cho tôi học lớp sửa ôtô. Công việc đã giúp tôi lấy lại thăng bằng cuộc sống, tôi bắt đầu hành trình làm lại cuộc đời. Một tiệm sửa xe nho nhỏ, một mái ấm gia đình giản đơn, tất cả đến với tôi như một giấc mơ. Trớ trêu thay khi tôi có chút danh phận, sự nghiệp thì mẹ đã bỏ tôi ra đi vĩnh viễn sau một căn bệnh ngặt nghèo.
Giờ đây mỗi năm đến ngày giỗ, thắp nén hương cho mẹ tôi lại nhớ đến người da diết. Dù mẹ không còn hiện diện trên cõi đời này nhưng trong trái tim tôi người vẫn sống mãi, để mỗi khi lầm đường lạc lối, chán nản thì hình ảnh của mẹ như một động lực giúp tôi vượt qua. Mẹ ơi! Con thật sự may mắn có được một người mẹ như vậy, lòng mẹ cao như trời, bao la như biển cả mà suốt cuộc đời này con không thể nào quên được!                    
ĐỨC KHA

P01: Lời xin lỗi muộn màng

Giới thiệu sách

Lời xin lỗi muộn màng
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà xuất bản: NXB Trẻ
Năm xuất bản: Đang cập nhật
Giá: 16.000 đồng
Giới thiệu:
(Sách dày 128 trang, xuất bản: 8/2004) 21 bài trúng giải cùng nhiều bài vào chung khảo khác được báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ chọn in trong cuốn Mẹ tôi – tập 1: Lời xin lỗi muộn màng trong dịp lễ Vu lan năm nay. Mong đó sẽ là một món quà quí không phải dành tặng Mẹ mà chính là cho các người con được đọc, để biết thương mẹ mình hơn. Thương hơn, và thương ngay từ bây giờ, trước khi quá muộn!

Hơn 90% bà mẹ trong 1.199 bài tham dự cuộc thi viết ngắn “Mẹ tôi” là những bà mẹ nghèo. Phần lớn trong số đó ở nông thôn. Phần lớn nay đã mất. Phần không nhỏ nữa, đó là những bà mẹ vô cùng vất vả, cực khổ gồng gánh nuôi con, lặng lẽ và âm thầm nhận hết phần thiệt thòi về mình, dù có thể “chưa bao giờ có được một miếng ăn ngon, một tấm áo đẹp” nhưng luôn luôn tìm cách để con được học hành, nên người…
Chân dung người phụ nữ Việt Nam qua các bài dự thi, đẹp một cách nao lòng. Hầu như bà mẹ nào cũng xứng đáng với danh hiệu “bà mẹ Việt Nam anh hùng”, dù bản thân chưa từng cầm súng hoặc chưa từng có con ra trận. Cuộc chiến chống lại đói nghèo, dốt nát… đã được tiến hành từ những bà mẹ quê chân lấm tay bùn như vậy. Đất nước dần đi lên cũng từ chính những bà mẹ hết lòng thương con và sẵn sàng vượt qua mọi nghịch cảnh vì sự sống của con như vậy.
Cũng là hơn 90% nội dung các bài viết ít nhiều chứa đựng một nỗi hối tiếc muộn màng của người con. Chỉ đến khi mẹ đã nằm xuống, mới nhận ra lòng mẹ bao la, tình mẹ rộng lớn và mẹ là người vĩ đại như thế nào! Mới hiểu được “mất mẹ chính là sự mất mát lớn nhất của con người”. Và cái đau khổ nhất chính là mình sẽ không bao giờ báo đáp được tình mẹ, và cho dù mình báo đáp đến mấy đi nữa thì cũng chẳng thấm tháp gì với công lao trời biển của mẹ.
Những nỗi đau khổ đó đã làm nên sự chân thành hiếm có cho cuộc thi, với rất nhiều chi tiết đẹp, đa dạng mà hiếm nhà văn nào có thể nghĩ ra. Cũng vì vậy mà hầu như không bài viết nào có thể chê trách được về mặt nội dung (người mẹ nào cũng đẹp cả!), vấn đề quyết định chỉ là chất lượng thể hiện. Ban giám khảo đã khá vất vả khi đọc và bình chọn để cuối cùng thống nhất một bảng giải tương đối, và việc nâng từ 10 giải khuyến khích lên 15 giải cũng chỉ là một cố gắng đáp ứng lại một cuộc thi quá đẹp.
21 bài trúng giải cùng nhiều bài vào chung khảo khác được báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ chọn in trong cuốn Mẹ tôi – tập 1: Lời xin lỗi muộn màng trong dịp lễ Vu lan năm nay. Mong đó sẽ là một món quà quí không phải dành tặng Mẹ mà chính là cho các người con được đọc, để biết thương mẹ mình hơn. Thương hơn, và thương ngay từ bây giờ, trước khi quá muộn!
Tủ sách TT