Hiển thị các bài đăng có nhãn Sống Với Ước Mơ... Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sống Với Ước Mơ... Hiển thị tất cả bài đăng

07: Theo đuổi ước mơ

Tôi có một người bạn tên Monty Roberts hiện đang sở hữu một trang trại ngựa ở San Ysidro. Anh vừa cho tôi sử dụng nhà của anh để tổ chức những buổi gây quỹ nhằm quyên tiền cho các chương trình thanh niên mạo hiểm.
Lần cuối cùng khi tôi ở đó, anh đã nói với mọi người như thế này: “Tôi muốn các bạn biết vì sao tôi để Jack sử dụng nhà của tôi. Tất cả khởi nguồn từ câu chuyện về một chàng thanh niên là con của một người huấn luyện ngựa rày đây mai đó, đi từ chuồng ngựa này sang chuồng ngựa khác, hết đường đua này đến đường đua nọ, hết đồn điền này sang đồn điền kia rồi hết trang trại này sang trang trại khác để huấn luyện ngựa."
"Cũng vì vậy mà việc học trung học của cậu con trai liên tục bị gián đoạn. Vào năm cuối ở bậc trung học, cậu được yêu cầu viết một bài luận về việc cậu muốn trở thành người như thế nào và muốn làm gì khi trưởng thành."
“Đêm đó cậu đã viết một bài luận dài 7 trang giấy mô tả mục tiêu của mình là một ngày nào đó có thể làm chủ một trang trại ngựa. Cậu viết thật chi tiết về ước mơ của mình, thậm chí cậu còn phác họa sơ đồ một trang trại rộng 200 mẫu, cho thấy vị trí của tất cả tòa nhà, chuồng ngựa cũng như đường đua. Tiếp theo cậu lập ra một kế hoạch lát sàn thật chi tiết cho một ngôi nhà rộng hơn 1.200 m2 tọa lạc trên trang trại mơ ước rộng 200 mẫu.
“Cậu đã đặt hết tâm ý của mình vào đề án này và ngày hôm sau cậu trao nó tận tay thầy giáo. Hai ngày sau, cậu nhận lại bài luận của mình. Ngay trên trang đầu là một chữ F màu đỏ rất to cùng với lời ghi chú: ‘Gặp thầy sau giờ học’.
“Thế là chàng trai với ước mơ ấp ủ của mình đi gặp thầy giáo sau buổi học và hỏi: ‘Tại sao em lại bị điểm F ạ?’.
“Người thầy trả lời: "Đây là một mơ ước hoang đường đối với một người như em. Em không có tiền. Em sinh ra trong một gia đình có cuộc sống không ổn định. Em cũng không có tài xoay xở. Mà sở hữu một trang trại ngựa lại cần rất nhiều tiền. Em cần phải mua đất. Em phải chi tiền cho việc gây giống ngựa thuần chủng và sau đó là những khoản chi phí to lớn cho đàn ngựa giống này. Em không cách nào làm được đâu’. Rồi người thầy nói thêm: ‘Nếu em viết lại bài luận này với một mục tiêu thực tế hơn, thì thầy sẽ xem xét lại điểm của em’.
“Chàng trai về nhà và suy nghĩ thật lâu, thật kỹ lời của thầy giáo. Cậu hỏi cha mình nên làm gì. Người cha trả lời: ‘Nghe này con trai, con phải tự quyết định thôi. Dẫu vậy, cha nghĩ đây sẽ là một quyết định rất quan trọng đối với con đấy’.
“Cuối cùng, sau một tuần đắn đo về bài luận của mình, chàng trai nộp lại bài luận ấy mà không sửa lại bất kỳ chỗ nào. Cậu còn ghi rõ: ‘Thầy có thể giữ nguyên điểm F này còn em sẽ tiếp tục theo đuổi ước mơ của mình’.”
Rồi Monty quay sang đám đông đang tụ tập và nói: “Tôi kể cho các bạn câu chuyện này bởi vì các bạn đang ngồi trong ngôi nhà rộng hơn 1.200 m2 ngay giữa trang trại ngựa 200 mẫu của tôi. Tôi vẫn còn đóng khung bài luận văn đó và để ở chỗ lò sưởi”.
Anh nói thêm: “Phần hay nhất của câu chuyện là vào mùa hạ cách đây hai năm, cũng người thầy giáo đó đã đưa 30 đứa trẻ đến cắm trại tại trang trại của tôi trong một tuần. Trước lúc rời khỏi đây, thầy nói: ‘Này Monty, giờ thì thầy có thể nói với em điều này. Khi còn làm thầy của em, thầy cũng giống như kẻ đánh cắp ước mơ. Trong suốt những năm đó, thầy đã tước đi rất nhiều ước mơ của bọn trẻ. May thay em đã có đủ nghị lực để không từ bỏ ước mơ của mình’”.
Đừng để bất kỳ ai tước đi ước mơ của bạn. Dù thế nào đi nữa, hãy nghe theo con tim của mình. 
- Jack Canfield
JACK CANFIELD & MARK VICTOR HANSEN

Ngày Mẹ khóc

Vào một ngày mùa đông âm u cách đây rất lâu, tôi từ trường trở về nhà, lòng đầy háo hức. Trong tay tôi là tờ báo thể thao ưa thích số mới ra và tôi có một ngôi nhà cho riêng mình. Bố tôi đang ở chỗ làm, em gái tôi đi vắng, còn mẹ tôi đang ở nơi làm việc mới và sẽ về nhà trong vòng một tiếng nữa. Tôi nhảy chân sáo bước vào phòng khách và bật công tắc đèn.
Tôi ngạc nhiên đến sững người trước những gì mình trông thấy. Mẹ tôi đang ngồi co ro ở góc đi-văng, hai tay ôm lấy mặt. Mẹ đang khóc. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ khóc.
Tôi nhẹ nhàng tiến đến và đặt tay lên vai mẹ. “Mẹ ơi.” – Tôi gọi. “Có chuyện gì hả mẹ?”
Bà thở dài và gượng cười. “Thật ra thì chẳng có gì con ạ. Không có gì ghê gớm cả. Chỉ là mẹ sẽ mất công việc mới này mất thôi. Mẹ đánh máy không được nhanh.”
Tôi nói: “Nhưng mẹ chỉ mới làm có ba ngày thôi mà, mẹ có thể theo kịp mà”. Tôi lặp lại những lời mà mẹ đã nói với tôi hàng trăm lần mỗi khi tôi gặp rắc rối trong việc học hoặc khi làm điều gì đó quan trọng.
“Không được đâu.” - Bà buồn rầu nói. “Không có thời gian cho việc đó con ạ. Mẹ không thể gánh nổi khối lượng công việc của mình. Mẹ làm cho mọi người trong văn phòng phải làm việc nhiều gấp đôi.”
“Chỉ vì họ giao cho mẹ quá nhiều việc đấy thôi.” - Tôi nói - hy vọng chỉ ra sự thiếu công bằng trong việc bà cảm thấy mình thất bại. Bà quá hiền lành khi thừa nhận như vậy.
“Mẹ luôn nói mẹ có thể làm bất cứ điều gì mà mẹ đã đặt làm mục tiêu trong đầu,” - bà nói - “và bây giờ mẹ vẫn nghĩ mẹ có thể làm được hầu hết mọi việc. Nhưng mẹ không thể làm điều này”.
Tôi cảm thấy mình bất lực và hụt hẫng. Ở tuổi mười sáu, tôi vẫn cho rằng mẹ có thể làm được mọi chuyện. Vài năm trước, khi chúng tôi bán trang trại đi và dọn đến thị trấn, mẹ đã quyết định mở một nhà trẻ. Mẹ tôi không được đào tạo gì hết, nhưng điều đó cũng không ngăn được bà. Bà tham gia các khóa học từ xa về chăm sóc trẻ nhỏ, làm các bài tập và trong sáu tháng bà chính thức đảm đương được công việc.
Chẳng bao lâu sau danh sách đăng ký gửi trẻ đã đầy và bà có cả danh sách đăng ký trước nữa. Phụ huynh khen ngợi mẹ tôi, còn lũ trẻ cho thấy bà đã chiếm được tình cảm yếu mến của chúng bằng sự luyến tiếc khi phải ra về vào buổi chiều. Tôi đón nhận sự việc này như một điều hoàn toàn bình thường đối với khả năng của mẹ.
Nhưng rồi nhà trẻ và cả nhà nghỉ mà ba mẹ tôi mua sau này cũng không đủ chi phí cho việc học hành của chị em tôi. Chúng tôi bán nhà nghỉ lúc tôi học lớp mười một. Hai năm nữa, tôi sẽ vào đại học. Và trong ba năm kế tiếp, em gái tôi cũng sẽ đi học. Thời gian trôi qua nhanh và mẹ tôi phải nghĩ ra đủ mọi cách để dành dụm tiền. Cha tôi chắc chắn không thể làm nhiều hơn được nữa - ông đã canh tác tám mươi mẫu đất và còn làm cả một công việc toàn thời gian nữa chứ.
Giống như nhiều đứa trẻ mười sáu tuổi khác, tôi muốn cha mẹ dành thời gian và chú ý đến mình nhưng tôi chẳng bao giờ nhận ra rằng họ cũng có những nhu cầu và vấn đề của riêng họ. Thật ra, tôi chẳng hiểu gì về cuộc sống của họ cả bởi vì tôi chỉ biết nghĩ cho mình.
Vài tháng sau khi bán nhà nghỉ, mẹ tôi mang về nhà một chiếc máy đánh chữ cũ. Nó bị vênh một vài ký tự và bàn phím đã cũ mèm. Vào bữa cơm tối hôm đó, tôi đã gọi cái máy đó là “đống sắt vụn”.
“Đó là thứ tốt nhất chúng ta có thể mua đấy.” - Mẹ nói. “Nó vẫn còn tốt, đủ để mẹ học.” Và thế là từ hôm ấy, ngay sau khi dọn dẹp xong bàn ghế và rửa sạch chén đĩa, mẹ tôi lại miệt mài trong phòng may đồ để tập luyện. Những tiếng gõ chầm chậm cứ tiếp tục hằng đêm tới tận nửa khuya.
Một đêm gần Giáng sinh, tôi nghe mẹ tôi nói với cha rằng có một công việc phù hợp đang cần tuyển người ở đài phát thanh. “Đó sẽ là một công việc thú vị anh ạ,” - bà nói - “nhưng em đánh máy chưa nhanh lắm”.
“Nếu em muốn làm công việc đó thì em cứ nộp đơn đi.” - Cha tôi động viên mẹ.
Tôi không hề ngạc nhiên hoặc có một chút ấn tượng nào khi mẹ được nhận vào làm công việc đó. Nhưng mẹ tôi lại rất hứng khởi.
Thứ hai, sau ngày đầu tiên mẹ đi làm, tôi thấy mẹ không còn hào hứng nữa. Trông mẹ rất mệt mỏi và buồn bã. Tôi cũng chẳng màng hỏi tới.
Thứ ba, cha tôi nấu bữa tối và dọn dẹp nhà bếp. Mẹ ở trong phòng may luyện tập. “Mẹ ổn chứ ạ?” - Tôi hỏi cha.
“Mẹ gặp chút rắc rối với việc đánh máy con ạ.” - Ông trả lời. “Mẹ cần phải luyện tập thêm. Cha nghĩ mẹ sẽ rất vui lòng nếu chúng ta cùng giúp đỡ mẹ thêm một chút đấy.”
“Con có giúp rồi mà.” - Tôi trả lời, lập tức trở nên cảnh giác.
“Cha biết con đã giúp.” - Cha nói thật từ tốn. “Và con có thể giúp nhiều hơn nữa. Con hãy nhớ rằng mẹ đang làm việc chủ yếu là để con có thể vào học đại học đấy.”
Thực tình tôi chẳng hề bận tâm. Trong cơn tự ái, tôi gọi điện cho đứa bạn và đi ra ngoài uống nước. Khi tôi về nhà thì trong nhà tối om, ngoại trừ ánh đèn hắt ra từ cửa phòng mẹ. Tôi có cảm giác rằng mẹ đánh máy thậm chí càng lúc càng chậm hơn. Tôi ước mẹ có thể quên hết mọi chuyện.
Sự kinh ngạc và bối rối của tôi khi nhìn thấy mẹ đẫm nước mắt hôm thứ tư là một dấu hiệu cụ thể cho thấy tôi chỉ hiểu rất ít về áp lực mà mẹ phải chịu. Ngồi cạnh mẹ trên ghế, tôi bắt đầu dần hiểu ra.
“Mẹ nghĩ tất cả chúng ta ai cũng có đôi lần thất bại.” - Mẹ khẽ nói.
Tôi có thể cảm nhận nỗi đau và nỗ lực kiềm chế những cảm xúc mãnh liệt của mẹ trước sự xuất hiện của tôi. Bỗng nhiên có gì đó trong tôi chợt trỗi dậy. Tôi đến gần và choàng tay ôm lấy mẹ.
Mẹ khóc òa lên. Bà úp mặt vào vai tôi khóc nức nở. Tôi ôm mẹ thật chặt và không nói gì cả. Tôi biết tôi đang làm những gì mình nên làm, những gì tôi có thể làm và như thế là đủ. Vào khoảnh khắc đó, khi cảm nhận lưng mẹ đang rung lên vì xúc động, cũng là lần đầu tiên tôi hiểu được sự yếu đuối của mẹ.
Mẹ vẫn là mẹ của tôi, nhưng hơn thế nữa, bà cũng là một con người giống như tôi, biết sợ hãi, đau đớn và thất bại. Tôi có thể cảm nhận nỗi đau của mẹ cũng như mẹ đã cảm nhận được nỗi đau của tôi hàng ngàn lần khi tôi tìm kiếm sự bình an trong vòng tay bà.
Rồi chuyện đó cũng kết thúc. Lau nước mắt, mẹ đứng dậy và nhìn tôi. “Con này, có thể mẹ là người đánh máy chậm nhưng mẹ không phải là kẻ dựa dẫm nên mẹ sẽ không tiếp tục công việc mà mẹ không thể làm nữa. Ngày mai mẹ sẽ hỏi xem liệu mẹ có thể làm đến hết tuần này không. Rồi mẹ sẽ xin nghỉ.”
Và mẹ tôi đã làm thế thật. Sếp của mẹ tôi lấy làm tiếc về trường hợp của bà. Họ kết thúc công việc trong sự tôn trọng lẫn nhau, ông ấy đề nghị trả cho mẹ một tuần lương nhưng mẹ đã từ chối. Một tuần sau, mẹ nhận công việc bán thực phẩm khô với mức lương chỉ bằng một nửa so với ở đài phát thanh. Mẹ tôi chỉ nói đơn giản: “Đó là công việc mà mẹ có thể làm được”.
Nhưng những buổi luyện tập với chiếc máy đánh chữ màu xanh cũ kỹ vẫn cứ tiếp tục mỗi tối. Giờ đây tôi có cảm giác rất khác khi đi ngang qua phòng mẹ vào ban đêm và nghe tiếng gõ của mẹ văng vẳng. Tôi biết có điều gì đó đang diễn ra trong phòng chứ không chỉ là một người phụ nữ đang học đánh chữ.
Hai năm sau, khi tôi vào đại học, mẹ tôi đã có một công việc trong văn phòng với mức lương khá hơn và nhiều trách nhiệm hơn. Tôi phải thừa nhận rằng, bằng một cách lạ thường nào đó, bà đã học được rất nhiều từ thất bại lần đó, cũng giống như tôi vậy. Bởi vì vài năm sau đó, khi tôi học xong và tự hào được nhận vào làm phóng viên cho một tờ báo thì bà đã là phóng viên của một tờ báo trong thị trấn của chúng tôi được sáu tháng.
Tôi và mẹ không bao giờ nhắc lại buổi chiều mẹ đã suy sụp ấy nữa. Nhưng mỗi khi tôi thất bại trong lần cố gắng đầu tiên và bị niềm kiêu hãnh hoặc sự thất vọng xui khiến tôi từ bỏ điều mình mong mỏi, tôi luôn nhớ lại thời gian mẹ học đánh máy. Nhìn thấy sự yếu đuối của mẹ, tôi không chỉ học được cách khâm phục sức mạnh của mẹ mà còn khám phá được sức mạnh của chính tôi.
Cách đây không lâu, tôi giúp mẹ tổ chức sinh nhật lần thứ sáu mươi hai của bà. Tôi nấu bữa tối cho cha mẹ mình rồi sau đó dọn dẹp nhà bếp. Mẹ tôi vào xem trong lúc tôi dọn dẹp và nhắc lại cái ngày nhiều năm trước khi mẹ trở về nhà với chiếc máy đánh chữ cũ kỹ, kinh khủng đó. Tôi hỏi: “À, thế chuyện gì đã xảy ra với cái máy đánh chữ quái vật đó hả mẹ?”.
“Ồ, mẹ vẫn giữ nó đấy.” - Bà trả lời. “Con biết đấy, nó là một kỷ vật... về cái ngày con nhận ra mẹ cũng chỉ là một con người. Mọi việc sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu mọi người biết rằng người khác cũng là những người bình thường như mình.”
Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng bà đã nhận ra chuyện gì xảy đến với tôi hôm đó. Tôi bật cười chính mình. Tôi nói: “Ước gì hôm nào mẹ cho con cái máy đó”.
“Mẹ sẽ cho con,” - bà nói - “nhưng với một điều kiện”.
“Điều kiện gì ạ?.”
“Rằng con sẽ không bao giờ sửa nó. Gần như không thể nào đánh chữ trên cái máy đó và đó chính là cách tốt nhất mà nó đã phục vụ gia đình chúng ta.”
Tôi mỉm cười với ý nghĩ đó. “Và còn nữa,” - bà nói - “đừng bao giờ trì hoãn một cái ôm dành cho ai đó khi con cảm thấy muốn làm như vậy. Con có thể mãi mãi bỏ mất cơ hội đó”.
Tôi quàng tay qua người mẹ, ôm bà thật chặt và cảm thấy biết ơn sâu sắc khoảnh khắc ấy, cũng như tất cả những khoảnh khắc hạnh phúc mà bà đã cho tôi trong suốt những năm qua. “Chúc mừng sinh nhật mẹ!” - Tôi nói.
Chiếc máy đánh chữ màu xanh cũ kỹ giờ đang nằm trong văn phòng của tôi, không hề được sửa chữa. Nó là một kỷ vật nhưng điều nó nhắc nhở tôi không hẳn là điều nó mang lại cho mẹ tôi. Khi tôi gặp rắc rối với một bài viết và nghĩ đến việc từ bỏ hoặc khi tôi bắt đầu cảm thấy thương hại bản thân và nghĩ rằng mọi việc lẽ ra phải suôn sẻ hơn cho mình, thì tôi lại cuộn mẩu giấy vào trong chiếc máy cũ kỹ thảm hại đó và đánh máy, từng từ từng từ thật khổ sở, giống như mẹ tôi đã từng làm.
Những gì tôi nhớ đến lúc đó lại không phải là thất bại của bà mà chính là sự can đảm của bà, sự can đảm để tiến lên phía trước.
Đó chính là kỷ vật tuyệt vời nhất mà tôi có.
- Gerald Moore
JACK CANFIELD & MARK VICTOR HANSEN

08: Nữ cầu thủ bóng chày

Hãy tự tin thẳng tiến theo con đường mơ ước của bạn. Hãy sống cuộc sống mà bạn hằng tưởng tượng.
- Henry David Thoreau
“Thế thì sao hả Ray? Tớ không phải là con trai thì sao chứ? Tớ có thể ném giỏi hơn bất cứ ai, có lẽ chỉ trừ Tommy và cậu mà thôi. Tớ nhanh hơn tất cả các cậu gộp lại luôn đó.”
Cậu ta nói: “Cậu vẫn có thể chơi với đám con gái trong giờ ra chơi cơ mà”.
Tôi chằm chằm nhìn thẳng vào mắt cậu ta, lúc ấy chúng tôi đang ngồi bắt tréo chân trên vệ đường phía trước nhà tôi. Nền đất âm ấm. Những cọng cỏ dại nhô lên và cào nhẹ vào đùi tôi.
Tôi đã thắng, buộc cậu ta phải cúi nhìn đi chỗ khác.
Ray nhìn tấm thẻ có đề chữ Big Chief (đội trưởng) ở trong lòng tôi.
“Chắc chắn cậu không thể thắng cuộc thi đó đâu Dandi à.” - Cậu ta lầm bầm - “Tớ không hiểu sao cậu vẫn cứ tham dự.”
Hắn hất mớ tóc nâu thẳng như những luống bắp ra khỏi mắt. Mẹ của Ray cắt tóc cho cả hai chúng tôi. Tôi vén tóc lên rồi lôi ra tờ phiếu đăng ký mà tôi đã xé từ trang thể thao “Ngôi sao thành phố Kansas”.
Tôi nói: “Tớ sẽ tham gia, và tớ sẽ thắng”.
Ray giật tấm phiếu khỏi tay tôi và dí ngón tay vào mấy dòng chữ.
“Nhìn mà xem!” – Cậu ta nói đầy vẻ đắc ý. “Rành rành ngay đây này: cuộc thi tìm nam cầu thủ bóng chày 1959. Trong khoảng bảy mươi lăm từ, hãy nêu rõ lý do bạn muốn trở thành nam cầu thủ bóng chày cho đội bóng chày chuyên nghiệp KC Athletics. Không phải nữ cầu thủ đâu nhé”. Rồi cậu ta ngoác miệng cười như thể nữ cầu thủ bóng chày là điều tức cười nhất mà cậu ta từng nghe tới vậy.
“Này, thật chẳng công bằng chút nào cả!” - Tôi vừa như nói với Ray, vừa như nói với chính mình.
Tôi chán cái việc không được làm một số việc chỉ vì mình là con gái lắm rồi. Ray đang chơi cho Little League. Tôi có thể đánh bại cậu ta bằng thế đứng ném bóng Stan Musiel của tôi. Nhưng ở thị trấn Missouri nhỏ bé của chúng tôi lại không có đội bóng chày nữ.
Tôi mười tuổi, lứa tuổi mà bọn con trai thôi không còn quan tâm là bạn có thể chơi bóng chày hay không, mà chúng không cho bạn chơi đơn giản chỉ vì bạn là con gái.
Chị Maureen dập mạnh cánh cửa.
“Chuyện gì đang diễn ra ở đây thế?” - Chị hỏi.
Maureen là chị của tôi. Chị sẽ không phân biệt được một quả bóng chày với một quả banh nếu nó có đập trúng vào mặt chị.
“Không có gì ạ.” – Tôi trả lời và nhét tờ phiếu đăng ký vào tấm thẻ của mình.
“Bọn em... dạ... đang vẽ ạ.” - Tôi nói dối.
Ray có vẻ bối rối. “Vẽ à? Tớ nghĩ bọn mình đang....”
Tôi thúc khuỷu tay ra hiệu cho cậu ta im lặng.
Chị Maureen cố nhìn tôi bằng cái nhìn đầy nghi ngờ mà mẹ vẫn thường nhìn. Điệu bộ ấy khiến chị trông rất giống con Bruno - con chó săn của chúng tôi – mỗi khi nó phải đi ra ngoài.
Tôi và Ray ngồi dưới ánh mặt trời và bắt đầu viết nguệch ngoạc bằng bút chì. Một giờ sau, tôi đã có được mười bốn trang giấy để trình làng.
“Mình xong rồi nè.” – Ray khoe.
“Vậy cậu đọc đi.” – Tôi nói.
Tôi đan chéo các ngón tay vào nhau và hy vọng nó sẽ dở tệ.
Ray đập một con mòng, rồi giơ bài viết của mình lên và đọc lớn: “Em muốn trở thành cầu thủ bóng chày cho đội Kansas City A’s (tức đội Kansas City Athletics) bởi vì em thật sự, thật sự, thật sự thích bóng chày và em thật sự, thật sự, thật sự thích thành phố Kansas và đội Athletics”.
Cậu ta mở to mắt nhìn tôi. “Cậu nghĩ sao hả Dandi?”
Tôi không nghĩ rằng nó lại dở đến thế.
“Sao nhiều chữ thật sự quá vậy?” - Tôi hỏi.
Trông cậu ta có vẻ không vui. “Tớ cần những từ như vậy! Cậu thì biết gì nào? Thậm chí cậu còn không thể tham dự cuộc thi nữa kìa.”
Ray bỏ lại tôi đứng một mình bên vệ đường. Tôi hít một hơi thật sâu hương thơm từ ruộng ngô bên kia đường và nghĩ về những điều mình có thể viết.
Khi tôi đặt bút viết, ngôn từ bắt đầu tuôn trào:
Mọi người quanh em đều nói rằng em không thể làm gì cả. Chị em bảo em không thể hát. Thầy giáo bảo em không thể đánh vần. Mẹ bảo em không thể nào trở thành cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp. Đứa bạn thân nhất của em lại nói rằng em không thể thắng trong cuộc thi này. Em tham dự cuộc thi này để chứng minh rằng họ đã sai. Em muốn trở thành cầu thủ bóng chày thế hệ tiếp theo cho đội Kansas City A’s.
Tôi ký tên là “Dan Daley”. Cha tôi luôn gọi tôi là “Dan”, cách gọi ngắn gọn cho cái tên Dandi. Tôi ghi địa chỉ lên phong bì và gửi đi bài viết của mình.
Nhiều tháng trôi qua, rồi một chiều cuối thu nọ, có tiếng gõ cửa nhà chúng tôi. Khi ra mở cửa, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy hai người đàn ông mặc com-lê xách cặp táp. Chắc chắn họ không phải người trong thị trấn.
“Chào cô bé,” - người đàn ông thấp hơn nói - “chúng tôi muốn nói chuyện với em trai của cháu”.
“Cháu không có em trai ạ.” - Tôi trả lời.
Người đàn ông cao hơn nhăn trán lại và mở chiếc cặp của mình ra. Ông ta lấy ra một xấp giấy. Cả hai người xem xét tỉ mỉ mấy tờ giấy, trong khi đó thì tôi đứng ở cửa ra vào, canh giữ cho ngôi nhà không hề có đứa em trai nào của mình.
“Đây có phải là nhà số 508 đường Samuel không?” - Người đàn ông thấp hơn hỏi.
“Vâng ạ.” - Tôi trả lời.
Ở trong xóm chúng tôi không ai dùng số nhà cả. Chỉ có hai căn nhà trên con đường này mà thôi.
“Vậy đây không phải là nhà của Dan Daley sao?”
Một tia sáng lóe lên trong đầu tôi. Rồi tôi chợt hiểu ra.
“Mẹ ơi!” – Tôi hét lên, mắt không rời khỏi hai người đàn ông xa lạ. “Lại đây mẹ ơi! Nhanh lên mẹ”. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi đã thắng cuộc thi tuyển nam cầu thủ bóng chày. Bài văn của tôi đã thắng giải!
Tôi để mẹ giải thích về chuyện tôi không có em trai. Tôi thưa thật mình đã tham dự cuộc thi tuyển với cái tên “Dan”. Chị Maureen và con Bruno bắt đầu chúc mừng tôi nhưng những người đàn ông lạ mặt thì không.
“Sao thế ạ?” – Tôi hỏi, một cảm giác lo sợ quen thuộc chạy dọc sống lưng tôi.
“À,” – người cao hơn nói – “cháu không phải là con trai”.
“Cháu biết ạ.” – Tôi trả lời.
“Luật của cuộc thi có ghi rõ là ‘nam từ tám tới mười hai tuổi,’” – người thấp hơn lên tiếng.
“Nhưng cháu đã thắng mà!” – Tôi quả quyết.
Ông ta nói: “Này cô bé, đây không phải là cuộc thi tìm kiếm nữ cầu thủ bóng chày”.
Nói rồi họ bước đi, mang theo cả ước mơ trở thành cầu thủ bóng chày cho đội Kansas City A’s của tôi. Với hy vọng có thể bù đắp cho sự việc đáng tiếc đó, họ đã gửi cho chúng tôi vé đi xem cả mùa giải, áo khoác của đội, những trái bóng chày có chữ ký, nón và cả một cây gậy bóng chày bằng gỗ cứng. Tôi chưa bao giờ đội chiếc nón ấy. Thay vào đó, tôi trở thành fan của đội St. Louis Cardinals. Nhưng vào một ngày nọ tôi cũng đã có lúc sử dụng cây gậy đánh bóng chày. Tôi tiến về phía sân trường nơi Ray, Tommy và những bạn khác đang chơi giữa chừng trong một trận đấu chọn cầu thủ.
“Tớ đánh đây.” – Tôi nói, lúc đó tôi đứng cách Ray một sải tay từ vị trí phát bóng.
Bọn con trai la hét phản đối nhưng dường như Ray biết được điều gì đó rất gây cấn sẽ xảy ra. Cậu ta gật đầu với cầu thủ ném bóng. Tôi đánh cú đầu tiên, cao, bổng và hướng ra ngoài, chỉ là tôi thích như thế. Tôi biết mình sẽ đánh được trái bóng đó qua khỏi hàng rào để hưởng một cú đánh cho phép người đánh chạy quanh ghi điểm mà khỏi cần dừng lại. Tôi quay người đi trước khi trái banh rơi xuống đường rồi lọt vào một cái rãnh.
Tôi nhẹ nhàng thả cây gậy đánh bóng chày của đội Kansas City Athletics ra và nghe thấy tiếng nó kêu lóc cóc trên nền đất. Tôi tự hào bước ra khỏi gôn đi về phía vị trí phát bóng của đội nhà, bỏ mặc cây gậy ở nơi nó đã rơi xuống.
“Cứ để cho bọn cầu thủ nam nhặt nó.”
JACK CANFIELD & MARK VICTOR HANSEN

04: Buổi phỏng vấn

Ước mơ là sự phản ánh mạnh mẽ khả năng phát triển thật sự của bạn.
- Denis Waitley và Reni L. Witt
Thư ký cho luật sư quận - đó là công việc cả đời. Tôi cứ mong ngóng chờ đến buổi phỏng vấn. Đây là vị trí mà tôi hằng mơ ước trong suốt những năm học đại học và là vị trí dành cho sinh viên mới tốt nghiệp.
Đêm trước buổi phỏng vấn, tôi bỏ ra hai tiếng đồng hồ lục lọi tủ quần áo của mình để lựa ra bộ đồ phù hợp nhất. Mình sẽ nói với ông ấy những gì nhỉ? Tôi thu người trong chiếc giường êm ái của mình và nhìn chằm chặp lên trần nhà, không tài nào ngủ được. Mình nên hành xử thế nào đây? Lòng bồn chồn, tôi nhắm mắt lại và cố ngủ một chút nhưng tôi chỉ toàn trở mình liên tục.
Cuối cùng, tiếng đồng hồ báo thức cũng đánh thức tôi dậy. Tôi cố mở mắt, và tôi cảm thấy có điều gì đó không ổn. Tôi cảm giác mặt mình đơ ra và rất khác lạ. Tôi đưa tay sờ lên má.
“Không!” Miệng tôi không thể nào há hết ra được.
Tôi chạy vào phòng tắm và soi mình trong gương, thật khủng khiếp. Khuôn mặt tôi bị biến dạng hệt như một bệnh nhân đột quỵ vậy. Mắt tôi thì méo xệch. Tôi không thể cử động được phía bên phải của khuôn mặt. Tôi khó mà nhận ra chính mình. Chuyện gì đang xảy ra với mình vậy? Mình rơi vào cơn ác mộng gì đây?
Mẹ tôi bước vào phòng. “Chuyện gì vậy con?” Mắt bà trợn tròn khi nhìn thấy gương mặt khủng khiếp của tôi.
“Chuyện gì xảy ra với con vậy mẹ?” – Tôi lắp bắp hỏi bà.
Sau cùng bà cũng cất nên lời: “Mẹ sẽ đưa con đến phòng cấp cứu”.
Thế là hai mẹ con tôi đi ngay. Cô y tá nhìn tôi rồi gọi bác sĩ tới. Mẹ con tôi cứ thế ngồi đợi ở đó dưới ánh đèn sáng chói.
Sau vài giờ xét nghiệm, sau cùng bác sĩ đã giải thích: “Cháu bị chứng tê liệt Bell, là tình trạng các cơ mặt bị kéo căng ra do quá căng thẳng. Cháu cần ngủ nhiều hơn và trong vài ngày mặt cháu sẽ trở lại bình thường”.
“Nhưng cháu có một buổi phỏng vấn xin việc vào chiều nay ạ.” – Tôi buồn bã nói.
“Ta rất tiếc,” – bác sĩ nói, vẻ quan tâm - “cháu nên xin hẹn lại, có lẽ nên vào cuối tuần”.
Suốt quãng đường dài đi xe về nhà, tôi chỉ nghĩ đến một điều là thật tệ hại nếu phải hẹn lại buổi phỏng vấn. Dĩ nhiên điều đó sẽ làm giảm đi cơ hội của tôi. Chẳng có ai hẹn lại với luật sư quận cả. Như thế thì tất cả những ứng viên khác sẽ có lợi thế hơn tôi, tôi kết luận.
Tôi nhìn đồng hồ rồi quyết định: “Mẹ, cho con xuống xe ở đường Jacob. Con sẽ đi phỏng vấn”.
“Con yêu, mẹ nghĩ con không nên tới đó. Trông con... lạ lắm.” – Mẹ nói thật nhẹ nhàng.
Tôi biết mẹ nói đúng. Có lẽ ông ta sẽ nhìn tôi rồi đánh giá tôi qua bề ngoài hơn là qua kinh nghiệm cũng như năng lực của tôi. Có lẽ tôi không nên đi. Nhưng nếu tôi không đi, tôi sẽ luôn tự dằn vặt không biết mình có thể nhận được công việc mơ ước này hay không.
“Không, mẹ hãy đưa con tới đó đi.” 
Mẹ lưỡng lự, nhưng rồi bà cũng đưa tôi đi. Tôi tiến thẳng vào trong cái văn phòng đáng sợ với các loại vật dụng màu gỗ gụ và những cây cột bằng cẩm thạch trắng, không để cho sự ngượng ngùng của bản thân hoặc bất kỳ bệnh tật nào ngăn cản mình. Không phải lúc này, không phải lúc khi mà tôi đã làm việc chăm chỉ rất lâu để có được cơ hội này.
Tôi bước đến chỗ người phụ nữ đang ngồi ở cái bàn phía trước và nói dõng dạc: “Tôi là Nicole Jenkins, tôi đến gặp ông Robertson ạ”.
Cô ấy nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tôi: “Ông ấy đang đợi cô. Cô vào trong đi”.
Tôi bước vào căn phòng ở phía bên phải cô ấy và nhìn thấy một người đàn ông tóc hoa râm đang ngồi sau cái bàn lớn đọc hồ sơ.
Bỗng nhiên tôi thấy hơi hồi hộp, và tôi phải ngồi xuống. Tôi ngồi vào cái ghế phía trước ông ấy.
“Chào cô,” - ông nói - “cô là cô Jenkins phải không?”.
“Vâng ạ. Xin thứ lỗi cho tôi. Tôi đang bị chứng tê liệt Bell. Bác sĩ nói tôi sẽ khỏi trong vài ngày tới ạ. Tôi vừa từ bệnh viện đến thẳng đây.”
Sau một thoáng ngập ngừng, ông ấy nói: “Cô rất tận tâm với công việc khi đến đây trong khi cô đang không đủ sức để vận động mạnh”.
“Vâng, thưa ông.”
Ông ấy dành vài phút xem qua hồ sơ xin việc của tôi. “Những thông tin trong đây đều đúng cả chứ?” - Ông chìa nó về phía tôi và hỏi.
Tôi liếc nhìn hồ sơ của mình: “Vâng ạ, nhưng tôi quên đề cập là tôi có thể đánh máy bảy mươi lăm từ trong một phút ạ”.
“Tuyệt.” - Ông mỉm cười. “Tuy không được một trăm điểm nhưng cô đã đạt điểm cao nhất trong kỳ thi tuyển đầu vào của chúng tôi. Cô đạt được điểm khá tốt về ngữ pháp và các chương trình vi tính”.
“Cái đó không quá khó với tôi ạ.” - Tôi chân thành đáp lại.
“À, dĩ nhiên là cô đã đáp ứng được các điều kiện tuyển dụng rồi. Cô có một lý lịch ấn tượng cùng với các kinh nghiệm liên quan. Tôi thấy cô ghi ở đây là đã từng làm việc cho lực lượng hải quân”.
“Làm việc trực tiếp với những vụ việc liên quan tới pháp luật ạ.” - Tôi giải thích thêm.
“Khi nào thì cô có thể bắt đầu đi làm?”
“Hai tuần nữa ạ.”
Ông liếc nhìn lịch bàn. “Vậy thì ngày 27 cô hãy đến đây lúc 9 giờ sáng nhé.”
Tôi há hốc mồm vì kinh ngạc: “Vậy là ông nhận tôi ư?”.
“Đúng vậy, cô rất thích hợp cho vị trí này.”
Tôi đứng lên: “Cám ơn ông vì đã tin tưởng tôi. Tôi sẽ không để cho ông thất vọng đâu ạ”.
“Tôi biết.” – Ông mỉm cười và đứng dậy bắt tay tôi: “Cô không chỉ có các kỹ năng tôi cần mà cô còn có cá tính nữa đấy”.
- Nicole Jenkins
JACK CANFIELD & MARK VICTOR HANSEN

05: Tôi đóng phim

Năm mười tám tuổi, tôi từ Tel Aviv đến Mỹ để tham gia đóng phim. Đó là một bí mật mà tôi giấu cha mẹ bởi tôi nói với họ rằng tôi rời nhà để theo học ngành báo chí.
Bốn mươi lăm năm sau, cuối cùng thì tôi cũng được sống trong niềm mơ ước của mình – một món quà từ đứa con trai cả của tôi.
Nó là Peter David, tác giả của những cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng bán chạy nhất của tờ New York Times (Star Trek: The next Generation, Deep Space Nine, The Hulk), tác giả truyện tranh, kịch bản truyền hình (Babylon 5, Space Cases) và một số bộ phim.
Kịch bản Backlash: Oblivion II của con trai tôi đang được dựng thành phim ở Rumani. Peter viết cho tôi một vai. Tôi cũng có lời thoại và cả một cảnh quay cận cảnh nữa.
Tôi từ bỏ ước mơ trở thành ngôi sao điện ảnh Hollywood lúc vừa mới tuổi đôi mươi để đi theo sự nghiệp báo chí ở các tòa soạn và đài phát thanh của một thành phố lớn. Khi còn nhỏ, Peter luôn là người cộng sự đáng tin cậy của tôi trong phòng tin; thằng bé gõ máy lóc cóc với những ngón tay nhỏ xíu của mình, trông giống hệt bố nó.
Vậy mà lời mời tham gia bộ phim của Peter ở Rumani vẫn là điều tôi không thể ngờ tới. Tôi và con trai xa cách về tình cảm do sống xa nhau, do những yêu cầu của công việc bận rộn cũng như cuộc sống gia đình của nó nữa. Nó lấy vợ và có ba đứa con. Tôi và Dalia - vợ tôi có lẽ một năm chỉ gặp được nó chừng ba lần mà thôi bởi vì chúng tôi sống ở hai bang khác nhau. Trước giờ chúng tôi chỉ nói chuyện ngắn gọn qua điện thoại. Tôi ít biết về cuộc sống của nó, và nó cũng chẳng biết gì nhiều về cuộc sống của vợ chồng tôi. Tôi có cảm giác mất mát, ý thức về cái chết của chính mình và cảm giác rằng thời gian giữa tôi và đứa con đầu lòng đang dần mất đi. Nhưng tôi không bao giờ để Peter biết. Nó không phải là người đa cảm.
Chuyến đi tới Rumani của chúng tôi bắt đầu vào một ngày thu khô lạnh, tiết trời trong xanh ở sân bay Kennedy, New York. “Bố con ta sẽ có nhiều thời gian ở cạnh nhau và rồi bố sẽ chán ngấy con cho mà xem.” – Peter nói. Tôi nói với nó rằng điều này sẽ chẳng bao giờ xảy ra cả. Dĩ nhiên, tôi chẳng biết nó sẽ cảm nhận về tôi thế nào cả.
Nhưng sau khi máy bay cất cánh, Peter bắt đầu mở lòng với tôi. Con tôi – với vẻ ngoài rất tự tin – đã nói rằng nó cảm thấy chưa hài lòng với những gì nó đã viết. Nó luôn nghĩ rằng nó có thể làm tốt hơn nữa. Nó cũng nói rằng nó rất cần sự ủng hộ của mọi người. Và đôi khi nó sợ rằng dòng ý tưởng trong nó đột nhiên cạn kiệt.
Tôi thấy tội nghiệp cho nó nhưng cũng thấy vui trong lòng. Con tôi đang chia sẻ với tôi như nó đã từng chia sẻ lúc còn ở nhà. Tôi chưa bao giờ chia sẻ với cha tôi cả. Lúc tôi và con tôi đã trở nên xa cách thì tôi mới hiểu cha tôi hẳn đã phải sống khép mình như thế nào. Giờ đây tôi thấy rất hứng khởi bởi con tôi đang quay trở lại với tôi.
Buổi sáng sau khi đến Bucharest, chúng tôi lái xe đến trường quay. Ngay giữa những cánh đồng đang được cày bừa và những nông trại nhỏ ở Rumani mọc lên một thị trấn mang phong cách của miền Viễn Tây Hoa Kỳ trước đây: cửa hàng bách hóa tổng hợp, quán rượu của cô Kitty, ngân hàng, những con ngựa buộc ở các cây cọc.
Bởi vì phim của Peter là sự pha trộn giữa phim cao bồi và khoa học viễn tưởng nên có cả một con tàu không gian đáp ở trạm xe lửa. Ngân hàng Wild West còn được trang bị cả một máy rút tiền tự động.
“Tuyệt thật.” – Tôi thốt lên. “Nơi này tuyệt thật đấy, Peter. Con có trí tưởng tượng thật tuyệt vời.”
Nó mỉm cười. “Bố có biết khi trẻ con chơi đùa, chúng muốn được cha mẹ nhìn thấy như thế nào không ạ?” – Nó hỏi. “Bọn trẻ muốn nói với cha mẹ rằng: ‘Mẹ ơi, nhìn con này, Bố ơi, xem con này’.”
Tôi đặt tay lên vai nó. “Và thế là con đã đưa bố đến đây để nói rằng: ‘Nhìn con này Bố ơi, hãy nhìn những gì con đạt được này’ phải không con?”
Peter gật đầu.
Vào khoảnh khắc ấy, tầng tầng lớp lớp khoảng cách tình cảm, tầng tầng lớp lớp sự phòng thủ vốn được dựng lên để chống lại sự thất vọng và thương tổn bắt đầu được gỡ bỏ. Tôi cảm nhận được một cảm giác nhẹ nhõm tuyệt vời, như thể một gánh nặng tâm lý đã được nhấc khỏi lồng ngực của mình. Tôi nhận ra con tôi rất yêu tôi, cũng như tôi yêu nó vậy, và nó cần sự thừa nhận cũng như sự ủng hộ của tôi biết dường nào. Tôi nói với nó rằng tôi rất ấn tượng trước những gì nó đạt được và tôi rất tự hào về nó.
Những ngày sau đó, tôi và Peter trò chuyện với nhau rất nhiều về cuộc sống, về hy vọng và những ước mơ của nó. Tôi cũng nói với nó về cuộc sống của tôi. Ở đó – ngay tại đất nước Rumani – cứ như thể chúng tôi đã được trở về nhà và nó lại là đứa con bé bỏng của tôi như ngày nào.
Ngày trọng đại của tôi nằm ở khoảng giữa thời gian mười một ngày lưu lại Rumani của chúng tôi. Peter chỉ cho tôi cách diễn trước máy quay. Trong trang phục cao bồi, thêm một chiếc mũ cao bồi, găng và ủng bằng da, tôi bước vào tiệm bách hóa tổng hợp mua ít đồ.
“Diễn!” – Đạo diễn nói lớn. Đó quả thật là một từ kỳ diệu.
Một nam diễn viên cao hơn 2 mét mặc đồ đen, đội một cái nón cao màu đen bước vào. Anh ta đóng vai một người điều khiển tang lễ với sức mạnh huyền bí, và sự xuất hiện của hắn cũng có nghĩa là cái chết sẽ xảy ra sau đó.
Ngay khi vừa nhìn thấy hắn, tôi lắp bắp nói với người chủ cửa hàng: “Tôi... tôi nghĩ tôi sẽ quay lại sau”. Lúc vội chạy ra ngoài, tôi làm rớt những món đồ hộp mà mình đã lựa trên sàn gỗ, gây ra một chuỗi tiếng động.
Tiếp đến là quay cận cảnh. “Đạt.” – Đạo diễn la lớn. Rồi đạo diễn, các diễn viên và mọi người trong đoàn làm phim vỗ tay tán thưởng. Mở đầu màn vỗ tay là con trai tôi.
Peter cẩn thận giữ lại cái nón và găng tay diễn để tôi làm kỷ niệm. Vào buổi chiều cuối cùng khi chúng tôi lưu lại đó, khi các thành viên trong đoàn đang viết những lời tốt đẹp trên trang tiêu đề trong phần kịch bản của tôi, tôi bảo Peter hãy làm như thế.
Nó nói: “Con không thể viết nên cảm xúc của mình chỉ với vài từ ngắn ngủi được ạ”.
Nhưng nó đã viết cảm xúc của nó vào trong cuốn nhật ký mà nó giữ trong suốt chuyến đi. Nó viết xong bài cuối cùng trong chiếc máy tính xách tay một giờ trước khi chúng tôi đáp xuống Kennedy.
“Khi con bắt đầu viết nhật ký, con đã nhắc đến bố như một người bố của con.” – Peter quay sang tôi và nói. “Rồi khi thời gian trôi qua, con bắt đầu nhắc đến bố một cách thân mật hơn. Bố có biết tại sao lại như vậy không?”
Mắt tôi ngấn lệ. Tôi muốn dang tay ra và ôm chặt lấy nó ngay tại đó - trên máy bay. Nhưng tôi sợ làm nó ngượng và có lẽ cả tôi cũng sẽ ngượng nữa. Nên tôi đặt tay mình lên tay nó và siết chặt. Chặt. Thật chặt.
Con tôi cũng siết chặt tay tôi.
- Gunter David
JACK CANFIELD & MARK VICTOR HANSEN

06: Điều không thể chỉ cần thêm một ít thời gian

Tôi chưa từng biết một ai có thể nói chắc chắn rằng điều gì là có thể và điều gì là không.
- Henry Ford

Ở tuổi hai mươi, tôi cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết trong đời. Tôi có một cơ thể khỏe mạnh: tôi là một tay chơi trượt nước và trượt tuyết khá cừ, chơi gôn, quần vợt, bóng rổ và bóng chuyền. Thậm chí tôi còn tham gia một giải đấu bowling nữa. Tôi chạy bộ gần như mỗi ngày.
Tôi vừa khởi sự một công ty mới chuyên về xây dựng sân quần vợt nên triển vọng tài chính của tôi khá hấp dẫn và sáng sủa. Tôi đính hôn với một cô gái đẹp nhất trên đời. Và rồi bi kịch xảy ra, ít nhất là theo cách nhiều người gọi như vậy:
Tôi giật bắn mình tỉnh giấc bởi tiếng kim loại bị nghiền nát và tiếng những mảnh kính vỡ. Mọi thứ lại đột ngột chìm vào im lặng, cũng nhanh như lúc nó xảy ra. Khi mở mắt ra, tôi thấy mọi thứ xung quanh đều tối sầm lại. Khi các giác quan hồi phục, tôi có thể cảm nhận được máu đang tuôn chảy trên khắp khuôn mặt mình. Và rồi tôi cảm nhận rõ cơn đau. Cơn đau ấy quả thật khủng khiếp và quá sức chịu đựng. Lúc tôi lại chìm vào vô thức, tôi nghe có nhiều giọng nói gọi tên mình.
Tạm biệt gia đình ở California vào một đêm Giáng sinh tuyệt đẹp, tôi thẳng tiến tới Utah cùng với một người bạn. Tôi đến đó để tận hưởng những ngày nghỉ còn lại bên Dallas, vị hôn thê của mình. Chúng tôi đang hoàn tất kế hoạch cho đám cưới sắp tới. Lễ cưới của chúng tôi sẽ diễn ra chỉ sau năm tuần ngắn ngủi nữa.
Tôi cầm lái suốt tám tiếng đầu của chuyến đi, sau đó tôi cảm thấy hơi mệt còn bạn tôi đã được nghỉ ngơi trong thời gian đó nên tôi đã nhường tay lái lại cho anh và ra ghế sau nghỉ ngơi. Tôi thắt dây an toàn và bạn tôi lái xe băng vào màn đêm. Sau khi lái xe được khoảng một tiếng rưỡi, cậu ấy ngủ gục trên tay lái. Chiếc xe lao vào dải phân cách bằng xi măng, leo lên trên, vọt qua và lộn nhào trên đường không biết bao nhiêu lần.
Cuối cùng, khi chiếc xe dừng hẳn lại thì tôi đã bất tỉnh nhân sự. Tôi đã văng ra khỏi xe và bị gãy cổ. Tôi bị liệt từ ngực trở xuống. Khi tôi được xe cứu thương đưa đến một bệnh viện ở Las Vegas, Nevada, bác sĩ cho biết tôi đã bị liệt tứ chi. Tôi không thể cử động cẳng chân và bàn chân. Tôi không thể cử động các cơ bụng và hai trong số ba cơ ngực lớn của mình. Tôi không thể sử dụng cơ ba đầu bên cánh tay phải. Tôi mất hầu hết các chức năng và sức mạnh ở vai và cánh tay. Tôi hoàn toàn không thể sử dụng đôi bàn tay của mình được nữa.
Cuộc sống mới của tôi bắt đầu từ đây.
Các bác sĩ bảo tôi phải có những mơ ước mới và hãy nghĩ về những điều mới. Họ nói với tình trạng thể chất hiện giờ của tôi, tôi sẽ không bao giờ làm việc trở lại được nữa – tuy vậy, tôi khá vui vẻ về một điều là chỉ có 93% những người ở trong tình cảnh giống như tôi không làm việc được thôi. Họ nói rằng tôi sẽ không bao giờ lái xe được nữa, rằng phần đời còn lại của tôi sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào người khác lúc ăn, lúc mặc và thậm chí phụ thuộc cả việc di chuyển nữa.
Họ bảo rằng tôi đừng nên nghĩ đến việc kết hôn bởi vì... ai mà muốn lấy tôi nữa chứ? Họ kết luận rằng tôi sẽ không bao giờ được chơi lại bất kỳ môn thể thao hoặc các hình thức thi đấu nào khác nữa. Lần đầu tiên trong cuộc đời trai trẻ của mình, tôi thật sự sợ hãi. Tôi sợ rằng những gì họ nói có thể trở thành sự thật.
Nằm trên giường bệnh ở Las Vegas, tôi tự hỏi tất cả những hy vọng và mơ ước của tôi đâu mất cả rồi. Tôi tự hỏi không biết mình có thể trở lại nguyên vẹn như xưa nữa không. Tôi tự hỏi liệu mình có thể làm việc, kết hôn, có một gia đình và tận hưởng những hoạt động của cuộc sống vốn đã từng đem lại cho tôi nhiều niềm vui thú hay không.
Trong suốt khoảng thời gian kinh hoàng với đầy ắp sự hoài nghi và nỗi sợ hãi ấy, khi cả thế giới dường như tối sầm lại thì mẹ tôi đến bên tôi và thì thầm vào tai tôi: “Art này, nếu những việc khó khăn cần nhiều thời gian... thì những điều không thể chỉ cần thêm một ít thời gian nữa thôi”. Bỗng nhiên căn phòng tăm tối bắt đầu tràn ngập ánh sáng của hy vọng và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng hơn.
Giờ đây - mười một năm kể từ khi nghe câu nói ấy - tôi hiện là chủ tịch công ty của chính mình. Tôi là một diễn giả chuyên nghiệp và là tác giả của cuốn “Một số điều kỳ diệu cần có thời gian” đã được xuất bản. Mỗi năm, tôi đi hơn 200.000 dặm để chia sẻ thông điệp Điều Không Thể Chỉ Cần Thêm Một Ít Thời Gian tới những công ty hàng đầu trong danh sách 500 công ty lớn của tạp chí Fortune, các hiệp hội quốc gia, các tập đoàn kinh doanh, hội thanh niên với lượng thính giả có khi vượt hơn 10.000 người.
Năm 1992, tôi đạt được danh hiệu Doanh nhân trẻ của năm do Hội đồng Doanh nghiệp Nhỏ trong khu vực sáu bang trao tặng. Năm 1994, tạp chí Thành Công đã vinh danh tôi là một trong những Người Trở Về Vĩ Đại của năm. Đó là những giấc mơ đã trở thành hiện thực trong đời tôi. Những giấc mơ này thành hiện thực có lẽ không phải vì hoàn cảnh của tôi... mà chính là nhờ vào chúng.
Kể từ hôm ấy, tôi đã tập lái xe. Tôi đi đến những nơi tôi muốn và làm những gì tôi thích. Tôi hoàn toàn tự lập và tự chăm sóc cho bản thân. Từ hôm ấy, tôi cảm nhận lại được cảm giác của cơ thể và tôi cũng lấy lại được một số chức năng và hoạt động của cơ cánh tay phải.
Tôi kết hôn với chính người phụ nữ xinh đẹp và tuyệt vời ấy một năm rưỡi sau cái ngày định mệnh đó. Năm 1992, Dallas, vợ tôi đã đoạt danh hiệu người đẹp Utah và đứng thứ ba trong những người đẹp ở Mỹ! Chúng tôi có hai đứa con, một bé gái ba tuổi tên McKenzie Raeanne và một cậu con trai một tháng tuổi tên Dalton Arthur – niềm vui trong cuộc sống của chúng tôi.
Tôi cũng trở lại với các môn thể thao. Tôi học bơi, lặn và lướt sóng với dù – theo tôi biết thì tôi là người bị liệt đầu tiên chơi lướt sóng với dù. Tôi học trượt tuyết. Tôi cũng học chơi môn bóng bầu dục. Tôi nghĩ rằng chúng không thể làm tôi đau đớn hơn nữa! Tôi cũng tham gia đua xe lăn và đua maratông. Ngày 10 tháng 7 năm 1993, tôi trở thành người bị liệt đầu tiên trên thế giới tham gia chặng đua ba mươi hai dặm trong bảy ngày từ Salt Lake City đến St. George, Utah – có lẽ đây không phải là điều tuyệt vời nhất tôi đã từng làm nhưng đó thật sự là điều khó khăn nhất.
Tại sao tôi làm được tất cả những việc này? Bởi vì nhiều năm trước tôi đã chọn lựa lắng nghe lời của mẹ và của trái tim mình hơn là của những người xung quanh, kể cả của những bác sĩ chuyên khoa. Tôi đã quyết tâm rằng hoàn cảnh hiện tại của tôi không có nghĩa là tôi phải từ bỏ những mơ ước của mình. Tôi tìm thấy lý do để lại hy vọng. Tôi nghiệm ra rằng mơ ước không bao giờ bị phá hủy trước hoàn cảnh khó khăn, rằng mơ ước được sinh ra từ con tim và khối óc và chúng chỉ có thể mất đi ở đó mà thôi. Bởi vì nếu những việc khó cần có thời gian thì những điều không thể chỉ cần thêm một chút thời gian nữa mà thôi.
- Art E. Berg
JACK CANFIELD & MARK VICTOR HANSEN

03: Hỏa thần - Hạnh phúc do ta tạo nên.

Lúc tám tuổi, tôi được xem một bộ phim nói về một hòn đảo bí hiểm có ngọn núi lửa đang phun trào và những cánh rừng nhiệt đới xanh tốt đầy rẫy thú hoang và các bộ tộc ăn thịt người. Hòn đảo do một phụ nữ xinh đẹp có tên là “Tandaleah, Hỏa thần của núi lửa” cai quản.
Đó là một bộ phim rất kinh khủng, có kinh phí thấp nhưng đối với tôi, nó đã thể hiện được một cuộc sống hoàn hảo.
Bị dòng dung nham nóng chảy rượt đuổi, sống với những con thú và bầy người khát máu là một cái giá quá rẻ để đổi lấy sự tự do. Tôi khao khát được trở thành Hỏa thần. Tôi viết điều này vào danh sách “Những việc phải làm khi lớn lên” và hỏi đứa bạn gái của tôi rằng có phải từ “Hỏa Thần” được đánh vần với hai chữ D hay không (Goddess).
Qua nhiều năm, nhà trường đã nỗ lực để uốn nắn tôi thành một công dân có trách nhiệm, đáng được tôn trọng, và Tandaleah bị rơi vào quên lãng. Cha mẹ tôi tán thành cuộc hôn nhân tương xứng của tôi. Tôi đã trải qua hai mươi lăm năm làm một người vợ tốt và sau đó là mẹ của bốn đứa con, đồng thời là một công dân có trách nhiệm, được tôn trọng. Cuộc sống của tôi tẻ nhạt lạt lẽo như nước ốc. Tôi biết chính xác mình mong mỏi điều gì trong tương lai: bọn trẻ sẽ trưởng thành và ra ở riêng, còn tôi và chồng cùng già đi và sẽ chăm sóc mấy đứa cháu.
Vào tuần lễ tôi bước qua tuổi năm mươi, cuộc hôn nhân của tôi đột ngột chấm dứt. Nhà cửa, đồ đạc và mọi thứ tôi sở hữu bị đem bán đấu giá để trả cho những khoản nợ mà tôi không hề biết. Chỉ trong một tuần, tôi mất chồng, mất nhà và cả cha mẹ – họ không chấp nhận một cuộc ly hôn trong gia đình. Tôi mất tất cả trừ bốn đứa con nhỏ.
Tôi cũng còn đủ tiền để thuê một căn hộ rẻ tiền trong thời gian tìm việc, hoặc tôi có thể dùng tất cả số tiền đó để mua năm chiếc vé máy bay đi từ Missouri tới một hòn đảo hẻo lánh nhất trên thế giới - Đảo Lớn ở Hawaii. Mọi người đều nói tôi điên nên mới nghĩ tới việc chạy trốn ra đảo để sống. Họ đoán chỉ trong vòng một tháng là tôi sẽ bò trở về. Tôi cũng phần nào lo sợ là họ sẽ đúng.
Ngày hôm sau, tôi và bốn đứa con đáp xuống Đảo Lớn ở Hawaii với số tiền chưa tới hai ngàn đô và ý thức rằng mình chẳng có ai giúp đỡ trên đời. Tôi thuê một căn hộ trống - nơi chúng tôi nằm ngủ trên sàn nhà và ăn ngũ cốc để sống. Tôi đã nhận làm một lúc ba việc: cọ rửa sàn nhà, bán quả hạch cho du khách và hái dừa. Tôi làm việc mười tám giờ mỗi ngày và sụt hơn 13 ký do chỉ ăn một bữa mỗi ngày. Đã có lúc tôi rơi vào tình trạng hoảng loạn đến mức co rúm người trên sàn phòng tắm, run lẩy bẩy như một chiến binh mệt mỏi sau nhiều ngày chiến đấu.
Một đêm nọ, khi lang thang một mình trên bãi biển, tôi trông thấy ánh sáng rừng rực của dòng dung nham đang trào ra từ ngọn núi lửa Kilauea đằng xa. Trước đó tôi đã nhìn thấy ngọn núi lửa hoạt động mạnh nhất hành tinh này nhưng lại lãng phí khoảnh khắc lạ thường đó bởi lúc ấy tôi đang bị quá khứ ám ảnh, cảm thấy mệt mỏi trước hiện tại và lo sợ về tương lai.
Tôi gần như đã chạm được vào giấc mơ thời ấu thơ của mình nhưng lại không nhận ra nó bởi tôi chỉ nhìn thấy gánh nặng trên vai thay vì những điều tốt đẹp. Đã đến lúc tôi sống với niềm mong ước của mình chứ không phải với những chuyện đã qua.
Tandaleah, Hỏa thần của núi lửa cuối cùng cũng đã xuất hiện.
Ngày hôm sau, tôi nghỉ việc và dành khoản tiền lương cuối cùng để mua dụng cụ vẽ và bắt đầu làm những việc mà mình yêu thích. Tôi đã không vẽ tranh trong suốt mười lăm năm bởi vì hiếm khi nào chúng tôi thoát được những công việc nông trại ở Missouri và cũng chẳng có tiền mà mua những tuýp sơn, vải và khung vẽ.
Tôi tự hỏi liệu mình vẫn còn vẽ được hay đã quên mất cách vẽ rồi. Tay tôi run run khi lần đầu cầm cọ trở lại, nhưng chỉ chưa đầy một giờ sau, tôi đã đắm chìm trong những sắc màu loang ra trên tấm vải trước mặt. Tôi vẽ những con thuyền buồm cổ. Và ngay khi tôi bắt đầu tin vào chính mình thì những người khác cũng bắt đầu tin tưởng tôi. Bức tranh đầu tiên của tôi bán được một nghìn năm trăm đô trước khi tôi kịp đóng khung cho nó.
Sáu năm trôi qua với đầy ắp những cuộc phiêu lưu: Tôi và bọn trẻ cùng bơi với lũ cá heo, ngắm đàn cá voi và đi bộ vòng quanh rìa miệng núi lửa. Mỗi sáng chúng tôi thức dậy với cảnh đại dương trước mặt và núi lửa ở phía sau.
Giấc mơ tôi ấp ủ hơn bốn mươi năm trước giờ đã thành sự thật. Tôi sống trên một hòn đảo với ngọn núi lửa không ngừng phun trào. Ở khu rừng nhiệt đới này chỉ có hai loài động vật đó là lợn rừng và giống cầy mangut. Nơi đây không có bất cứ loài ăn thịt nào cả. Vào mỗi tối, tôi có thể nghe được tiếng trống của những vũ công địa phương trên bãi biển.
Bạn bè xung quanh đã nhiều lần cố gắng giới thiệu tôi với các ông chú, với những người hàng xóm, cha và thậm chí là ông của họ với hy vọng rằng tôi sẽ tìm được một người bạn đời để không phải sống trong cảnh cô độc khi đến tuổi xế chiều. Họ thường dùng cách nói đại loại như: “Một người phụ nữ ở tuổi chị...” hay “Chị không trẻ lại được đâu...” để thúc tôi đi hẹn hò.
Tôi từ tốn cho họ biết rằng “người phụ nữ ở tuổi tôi” đã làm tròn trách nhiệm của mình rồi. Tôi đã được làm một người vợ, người mẹ và tôi tin rằng mình đã làm tốt. Tôi đã giữ vai trò đó hơn một phần tư thế kỷ. Và giờ đây ở từng tuổi này, tôi đã trở thành người phụ nữ mà tôi từng mong muốn thuở đôi mươi. Không, tôi không thể trẻ lại được, bất kỳ ai khác cũng thế thôi; nhưng thật lòng mà nói thì tôi cũng không muốn trẻ lại nữa.
Giờ đây tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết. Tôi có thể vẽ suốt đêm và ngủ cả ngày mà không cảm thấy có lỗi. Tôi có thể nấu ăn hoặc không cần nấu. Tôi có thể ăn bánh xốp kem và uống Pepsi cả tuần mà sẽ chẳng ai thuyết giáo tôi về tầm quan trọng của việc ăn kiêng cả.
Phải mất một thời gian khá lâu tôi mới có thể tìm thấy con người thật của mình, và tôi đã phải sống một mình để làm điều đó. Nhưng tôi không cô độc. Lần đầu tiên tôi được tự do trong đời. Tôi là Tandaleah, Hỏa thần của núi lửa và được đánh vần với hai chữ D... Và kể từ đó, tôi luôn sống hạnh phúc.
- Linda Stafford
JACK CANFIELD & MARK VICTOR HANSEN

02: Miếng đề can dán càng xe của Tommy

Tôi chỉ là một cá thể, nhưng tôi vẫn là tôi; tôi không thể làm tất cả mọi thứ; nhưng tôi vẫn có thể làm một điều gì đó. Và bởi vì tôi không thể làm tất cả nên tôi sẽ không từ chối làm bất cứ điều gì trong khả năng của mình.
- Edward Everett Hale
Một cậu nhóc ở nhà thờ tại bãi biển Huntington đến gặp tôi sau khi nghe tôi nói chuyện về Ngân Hàng Cho Trẻ Em. Cậu bé bắt tay tôi và nói: “Cháu là Tommy Tighe, cháu sáu tuổi và cháu muốn vay tiền của Ngân Hàng Cho Trẻ Em ạ”.
Tôi nói: “Tommy, cho trẻ em vay tiền là một trong những mục đích của ta. Và cho đến lúc này thì tất cả trẻ em đều phải trả lại tiền cho ta đấy. Thế cháu muốn làm gì nào?”.
Cậu bé trả lời: “Từ lúc bốn tuổi, cháu đã mong muốn mình có thể mang lại hòa bình cho thế giới. Cháu muốn làm một miếng đề can dán càng xe có ghi: “Hòa bình! Xin hãy ,mang lại hòa bình cho thiếu nhi chúng cháu" được ký tên ‘Tommy’ ạ”.
Tôi nói: “Ta có thể giúp cháu việc này đấy”. Cậu bé cần 454 đô-la để làm ra một ngàn miếng đề can dán càng xe. Quỹ Tự Do Kinh Doanh Dành Cho Trẻ Em của Mark Victor Hansen đã ký một chi phiếu cho chủ nhà in để in những miếng đề can này.
Bố của Tommy nói nhỏ vào tai tôi: “Nếu thằng bé không thể trả nợ thì ngài có xiết nợ chiếc xe đạp của nó không?”.
Tôi trả lời: “Không, mỗi đứa trẻ sinh ra đều có tính trung thực, đạo đức cũng như các nguyên tắc xử thế. Chúng phải được chỉ dạy thêm nhiều điều khác nữa. Tôi tin cậu bé sẽ trả lại tiền cho chúng tôi”. Nếu con bạn trên chín tuổi, hãy để chúng l-à-m v-i-ệ-c k-i-ế-m t-i-ề-n cho một người nào đó trung thực, có đạo đức cũng như các nguyên tắc xử thế để chúng sớm học được những nguyên tắc sống.
Chúng tôi đưa cho Tommy tất cả những cuộn băng sang lại của tôi. Cậu bé đã nghe mỗi cuộn băng hai mươi mốt lần và hiểu thấu đáo tài liệu này. Trong một cuộn băng có ý: “Luôn bắt đầu bán cho cấp cao nhất”. Tommy thuyết phục cha chở cậu đến nhà của Ronald Reagan. Tommy nhấn chuông và người gác cổng ra mở cửa.
Tommy đã trình bày một bài thuyết trình bán hàng dài hai phút hết sức cuốn hút về miếng đề can dán càng xe của mình. Người gác cổng lấy 1,5 đô-la trong túi ra đưa cho Tommy và nói: “Đây này, ta muốn có một cái. Đợi đó và ta sẽ báo với cựu Tổng thống”.
Tôi hỏi: “Tại sao cháu muốn ông ấy mua vậy?”. Cậu bé nói: “Chú nói trong đoạn băng là hãy mời mọi người mua mà”. Tôi nói: “Ta đã nói thế. Ta có nói. Đúng là do ta”.
Cậu bé gửi một miếng dán cho Tổng thống Mikhail Gorbachev cùng với hóa đơn 1,5 đô cho Quỹ U.S. Tổng thống Gorbachev đã gửi lại cho cậu bé 1,5 đô cùng một tấm hình với lời đề tặng: “Hãy nỗ lực vì hòa bình, Tommy” rồi ký tên “Tổng thống Mikhail Gorbachev”.
Vì tôi thích sưu tập chữ ký nên tôi bèn nói với Tommy: “Ta sẽ đưa cho cháu 500 đô để đổi lấy bút tích của Tổng thống Gorbachev nhé”.
Cậu bé trả lời: “Không, cám ơn chú Mark”.
Tôi lại nói: “Tommy, ta là chủ vài công ty. Khi cháu lớn, ta sẽ thuê cháu nhé”.
Cậu bé hỏi lại: “Chú đùa à?”. “Khi cháu lớn, cháu sẽ thuê lại chú đấy.”
Số báo ngày Chủ nhật của tờ Orange County Register có đăng một đoạn viết tóm tắt về câu chuyện của Tommy. Ký giả Marty Shaw đã phỏng vấn Tommy trong sáu giờ và viết một bài thật ấn tượng. Marty hỏi Tommy nghĩ gì về ảnh hưởng của cậu đối với hòa bình thế giới. Tommy trả lời: “Cháu nghĩ cháu vẫn chưa đủ lớn; cháu nghĩ người ta phải tám hoặc chín tuổi thì mới ngăn được tất cả những cuộc chiến tranh trên thế giới này ạ”.
Marty lại hỏi: “Người hùng của cháu là ai thế?”.
Cậu bé trả lời: “Bố cháu, George Burns, Wally Joiner và Mark Victor Hansen”. Tommy có nhận thức tốt về những người mà cậu cảm phục.
Ba ngày sau, tôi nhận được điện thoại từ công ty Hallmark Greeting Card. Người nhượng quyền của công ty Hallmark đã gửi fax bản sao của tờ Register cho tôi. Họ có tổ chức một buổi hội nghị ở San Francisco và muốn Tommy đến nói chuyện. Sau cùng họ cũng biết được Tommy đã đề ra chín mục tiêu cho riêng mình:
1.  Gọi điện hỏi về chi phí.
2.  Cho in miếng đề can dán càng xe.
3.  Lên kế hoạch vay tiền.
4.  Tìm cách để nói với mọi người.
5.  Tìm địa chỉ của các vị lãnh đạo.
6.  Viết thư cho tất cả tổng thống và các nhà lãnh đạo của những nước khác và gửi cho họ một miếng đề can dán càng xe miễn phí.
7.  Nói với mọi người về hòa bình.
8.  Gọi điện thoại cho các sạp báo và nói về việc kinh doanh của mình.
9.  Có một buổi nói chuyện trước trường.
Hallmark muốn công ty của tôi - chương trình Xem Ai Đang Nói Này - hẹn trước Tommy đến nói chuyện. Mặc dù buổi nói chuyện đã không diễn ra vì thời hạn hai tuần là quá ngắn, nhưng cuộc trao đổi giữa tôi, Hallmark và Tommy lại khá vui vẻ và có tác động mạnh mẽ.
Joan Rivers cũng đã mời Tommy Tighe tham dự vào một chương trình truyền hình của cô. Có ai đó đã fax cho cô bản sao của bài phỏng vấn về Tommy trên tờ Register. Joan nói: “Tommy, cô là Joan Rivers, và cô muốn cháu tham gia vào chương trình ti-vi được hàng triệu người đón xem của cô”.
“Tuyệt quá!” - Tommy trả lời. Dù cậu bé chẳng hề biết gì về cô ấy cả.
“Cô sẽ trả cho cháu 300 đô.” - Joan nói.
“Tuyệt thật!” – Tommy nói. Nghe tới nghe lui và hiểu rõ những cuộn băng Làm giàu từ chính mình của tôi, Tommy tiếp tục thuyết phục Joan: “Cháu chỉ mới tám tuổi, vì vậy cháu không thể đến một mình được ạ. Cô có thể trả thêm cho mẹ cháu được không hả cô Joan?”.
“Được chứ!” – Joan đồng ý.
“À mà cháu vừa mới xem chương trình Cuộc sống của những người giàu và nổi tiếng và thấy có nói cô sẽ ở trong tòa nhà Trump Plaza khi cô đến New York. Cô có thể làm được điều đó, phải không cô Joan?”
“Ừ.” – Joan trả lời.
“Chương trình cũng cho biết khi đến đó, cô cũng sẽ ghé thăm tòa nhà Empire State và tượng Nữ thần Tự do. Cô có thể cho cháu vé được không ạ?”
“Ừ...”
“Tuyệt quá. Cháu có nói với cô rằng mẹ cháu không thể lái xe chưa nhỉ? Vậy chúng ta có thể đi bằng chiếc limo của cô được chứ ạ?”
“Được thôi.” – Joan trả lời.
Tommy bước ra sân khấu của chương trình The Joan Rivers Show và đã tạo được ấn tượng mạnh với Joan, nhân viên trường quay, khán giả ở trường quay cũng như khán giả đang xem chương trình qua màn ảnh. Cậu bé rất bảnh, rất thu hút, tự tin và là một người năng động tuyệt vời. Cậu kể những câu chuyện lôi cuốn và thuyết phục đến mức khán giả đã móc tiền túi để mua ngay miếng đề can dán càng xe.
Vào cuối chương trình, Joan hỏi: “Tommy, cháu có thật sự nghĩ rằng miếng đề can dán càng xe của cháu sẽ mang lại hòa bình cho thế giới không?”.
Với nụ cười rạng rỡ, Tommy phấn khởi trả lời: “Cháu đã làm việc này được hai năm rồi đấy. Cháu làm tốt đấy chứ, cô có nghĩ vậy không ạ?”.
- Mark Victor Hansen
Cho đến giờ, Tommy đã bán được hơn 10.000 miếng đề can dán càng xe và đã tốt nghiệp Đại học California, Santa Barbara. Cậu sắp bắt đầu học chương trình thạc sĩ tâm lý và cậu vẫn tiếp tục bán đề can dán càng xe cho tới tận ngày hôm nay.
JACK CANFIELD & MARK VICTOR HANSEN

01: Lời giới thiệu - Sống với ước mơ

[Image]
Sống với ước mơ luôn là kết quả của tri thức, cảm hứng và nỗ lực. Cuốn sách độc đáo này chứa đựng hai điều đầu tiên và bạn sẽ phải thực hiện điều thứ ba. Tuổi Trẻ Online xin trích giới thiệu những mẫu chuyện trong tập sách này với mong muốn sẽ cùng bạn thực hiện được những ước mơ.
Bạn đang cầm trong tay cuốn sách có thể làm cuộc đời bạn thay đổi sâu sắc mãi mãi. Bạn đang nắm trong tay bản kế hoạch hành động để tạo dựng thành công và đạt được bất kỳ ước mơ nào mà bạn muốn - một lối sống lành mạnh hơn, một công việc thú vị hơn, tự do hơn về tiền bạc cũng như tình cảm, các mối quan hệ chan hòa và có ý nghĩa hơn, một cơ thể khỏe mạnh hơn và tận hưởng những hoạt động thư giãn thường xuyên hơn.
Sống với ước mơ luôn là kết quả của tri thức, cảm hứng và nỗ lực. Cuốn sách độc đáo này chứa đựng hai điều đầu tiên và bạn sẽ phải thực hiện điều thứ ba. Chúng tôi sẽ chỉ cho bạn mười bước hành động để biến ước mơ của bạn thành hiện thực. Cho dù mơ ước đó là sự thay đổi về tiền tài, sức khỏe, thể thao, các mối quan hệ, sự phát triển tâm linh, giáo dục, du lịch, chính trị hoặc xã hội, thì cũng không quan trọng. Bạn có thể áp dụng những nguyên tắc và kỹ thuật tương tự nhau để biến ước mơ thành hiện thực ở tại nhà, trường học, nơi làm việc, nhà thờ hay trong một cộng đồng lớn hơn.
Bạn cũng sẽ bắt gặp những câu chuyện “Hạt giống tâm hồn” có thể truyền cảm hứng khiến bạn tin rằng mọi thứ đều có thể – và điều đó sẽ khích lệ bạn biến những ước mơ ấp ủ trong tim thành hiện thực trong cuộc sống.
Chúng tôi tin rằng sống với ước mơ của bạn cũng đơn giản như việc hoàn tất những câu đố nối-điểm mà bạn gặp trên tờ thời báo Sunday. Nếu bạn bắt đầu ở số một và tiếp tục nối các điểm lại với nhau thì cuối cùng bạn sẽ giải ra câu đố. Những ước mơ cũng giống như vậy. Đơn giản chỉ là việc đi từ điểm này đến điểm khác cho đến khi bạn đạt được ước mơ của mình.
JACK CANFIELD & MARK VICTOR HANSEN