Hiển thị các bài đăng có nhãn Vì Sao Họ Thành Công.. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Vì Sao Họ Thành Công.. Hiển thị tất cả bài đăng

P15: Vì Sao Họ Thành Công - Tập 1

Thay cho lời kết

Thật diễm phúc khi tôi được làm đứa con gái bé bỏng dưới đôi cánh vĩ đại của Thomas J. Watson Jr. - “Nhà tư bản thành công nhất thế giới” - như Tạp chí Fortune có lần chạy tít trên trang bìa của họ. Tuy vậy, chúng tôi không hề hư hỏng như người ta tưởng tượng.
Thật ra, mẹ chỉ mua quần áo mới cho chúng tôi mỗi năm một lần và một đôi giày mới vào mùa thu. Chúng tôi ít khi nhận được những món quà mình yêu thích vào dịp lễ Giáng sinh và tiền tiêu vặt của chúng tôi cũng rất khiêm tốn.
Cha tôi luôn đối xử tốt với mọi người, dù họ là các nhà lãnh đạo của chính phủ hoặc các huấn luyện viên trượt tuyết Thụy Sĩ. Ông là người có óc tò mò cao độ và ham học hỏi. Có lần ông cho tôi một cây đàn cla-vi-co tuyệt đẹp và dụ tôi học piano. Tôi ghét học piano và càng ghét cay ghét đắng vụ “hối lộ” ấy hơn nữa. Cha tôi không quan tâm chuyện ông có tới năm đứa con gái và một cậu con trai - ông đối xử với chị em gái chúng tôi như con trai vậy. Hơn mười tuổi, tôi và chị Olive đồng sở hữu một chiếc xe gắn máy. Chúng tôi tung tăng khắp vùng Greenwich, Connecticut và cày xới bãi cỏ các nhà hàng xóm. Cha tôi rất khoái chí với lũ con gái hoang dã của ông.
Tự do tuổi thơ thật thích. Cha mẹ tôi không ở bên chúng tôi nhiều, chúng tôi tự trông nom chăm sóc lẫn nhau. Tôi là con giữa, vị trí tốt nhất trong một gia đình đông con. Tôi có thể nghịch ngợm phá phách mà không bị ăn đòn và còn được cha thương nhất. Khi còn bé, tôi thường được cha cho đi khắp thế giới theo các chuyến công tác của ông. Tôi nghĩ ông thích tôi vì tôi hay tranh luận với ông. Những người quyền cao chức trọng thường rất cao ngạo và hay bắt nạt kẻ khác. Tôi thường bảo sinh viên của tôi rằng không gì có thể làm người hay bắt nạt kẻ khác cảm thấy thích thú hơn là bị chặn đứng và gặp kẻ dám đương đầu lại với mình. Đó là chìa khóa thành công trong kinh doanh – biết cách không để uy quyền của người khác khuất phục mình.
Tôi nhớ có lần tôi mời John Sculley và vợ ông đến giới thiệu với cha tôi vào một buổi ăn trưa tại khu nhà nghỉ của gia đình chúng tôi trên bờ biển Maine. Trong lúc chúng tôi đang ngồi ngắm biển thì bỗng có một chiếc phi cơ nhỏ màu đỏ lao vút qua để lại một vệt khói trắng dài trên bầu trời xanh thẳm. Rồi nó bắt đầu nhào lộn theo hình xoắn ốc ngay trên đầu chúng tôi. John hoảng hốt hỏi tôi: “Có chuyện gì thế? Ai thế?”. Tôi đáp: “Ồ, cha tôi đấy! Ông ấy đang muốn chứng tỏ rằng mình vẫn còn đáng nể lắm”.
Tôi thấy kỳ cục khi cha có ý hơn thua với John, người thực sự nắm trong tay tiềm lực kinh tế cao hơn vào thời đó. Dĩ nhiên đó chỉ là một pha biểu diễn nhưng tôi tin mục đích thực sự của cha tôi là muốn chứng tỏ cho John rằng dù Tập đoàn Apple rất to lớn nhưng IBM cũng có những con người đầy tinh thần mạo hiểm. Có lẽ cha tôi phải chịu đựng mặc cảm tự ti trong suốt cuộc đời ông. Ông luôn tin rằng có nhiều người thông minh và tài giỏi hơn ông. Tôi nghĩ rằng nơi duy nhất ông cảm thấy tự tin là trong buồng lái máy bay. Ở tuổi năm mươi lăm, ông là một học viên lớn tuổi nhất ở trường dạy lái máy bay phản lực. Lúc sáu mươi lăm, ông học lái trực thăng và sau cùng là lái máy bay nhào lộn! Đối với ông, bay lượn là tự do. Ông nhận thấy cuộc sống văn phòng rất gò bó và ông chỉ có thể thoát ra bằng cách bay thật xa hoặc dong buồm đi nửa vòng trái đất theo hải trình mà Thuyền trưởng Cook đã đi mấy thế kỷ trước.
Cha tôi muốn trở thành phi công nhưng ông tôi, nhà sáng lập IBM không bao giờ cho phép ông làm điều đó. Cha tôi vào IBM và khổ sở với từng giây phút bị giam lỏng ở đó trong thời gian đầu. Khi ông thành công hơn, tôi biết ông phấn khích trước những thử thách khi điều hành một công ty lớn, nhưng từ tận đáy lòng, ông vẫn ước mơ được bay bổng trên không. Vào năm cuối đời, khi bác sĩ bảo ông không thể bay được nữa thì khát vọng sống của ông cũng không còn. Ông nhẹ dạ cả tin nhưng đáng yêu, hài hước nhưng không khoan dung. Tôi nghĩ ông không có lấy một phút bình yên trong tâm hồn để có thể thư giãn, để nhìn lại cuộc đời hay chỉ đơn giản là để cảm thấy hài lòng về sự nghiệp của mình.
Cha tôi tự cho mình là một CEO, nhưng với tôi việc đó còn phải tranh luận tiếp. Dù công việc của cả đời ông là điều hành Tập đoàn IBM, nhưng những ước mơ của ông còn lớn hơn và những sở thích của ông phản ánh khía cạnh này trong tính cách của ông. Ông là người không thể ngồi yên, một phẩm chất cơ bản của đa số những người tôi phỏng vấn, cũng như không thể giam hãm ước mơ của mình trong bốn bức tường chật hẹp. Mối quan tâm của ông về nền hòa bình thế giới và việc giải giáp vũ khí hạt nhân phản ánh ở sự gắn bó của ông với SALT (SALT – Strategic Arms Limitation Talks - Các cuộc đàm phán về việc hạn chế vũ khí chiến lược - ND) và ở mối quan hệ cấp đại sứ với Nga. Ông mở một học viện nghiên cứu ở Đại học Brown - Học viện Watson về nghiên cứu Quốc tế - là tổ chức có tôn chỉ duy nhất là làm giảm nhẹ các mối xung đột trên thế giới. Dù đã cố gắng hết mình nhưng chưa bao giờ ông cảm thấy an tâm. Đó là điều làm ông khác biệt so với các tổng giám đốc điều hành khác, hay các doanh nhân và các nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa mà tôi đã phỏng vấn. Ông chưa bao giờ là một nhà chính trị và ông thường gặp khó khăn trong việc bày tỏ chính kiến của mình đối với các vấn đề thời cuộc. Niềm say mê công việc của ông mang tính nhất thời và tùy thuộc vào việc nó có đem lại cho ông sự thách thức hay không. Có lẽ đó là lý do làm ông cảm thấy đam mê hơn với các sở thích của mình: lái máy bay và giong thuyền trên biển.
Rất lâu trước khi tôi có ý định viết quyển sách này, tôi đã phỏng vấn cha tôi. Khi đó ông đã ở vào những năm cuối đời và đang chống chọi với thần chết. Cuộc phỏng vấn tuy ngắn ngủi nhưng tôi tin rằng cha tôi đã nói hết được những điều quan trọng.
Những lời bộc bạch của Thomas J. Watson Jr.
Người cha kính yêu của tôi
Trong nhiều năm, cha điều hành Tập đoàn IBM và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của nó trên khắp năm mươi bang của Mỹ cũng như các chi nhánh ở nước ngoài. Cha xem nó là cuộc đời cha và nó cũng choán hết toàn bộ thời gian của cha. Cha làm cho IBM từ lúc rời không quân cho đến khi nghỉ hưu ở tuổi năm mươi sau một cơn nhồi máu cơ tim. Ngày nay cha vẫn tham gia trong một vài công ty này nọ rồi thì quanh quẩn với những chiếc thuyền buồm và máy bay của cha. Trong cha vẫn còn máu phiêu lưu mạo hiểm và đang có kế hoạch làm một cuộc hành trình vòng quanh thế giới trên biển.
Lúc nhỏ, cha không suy nghĩ gì nhiều. Thực sự cha cũng không nghĩ lớn lên cha sẽ kiếm được bao nhiêu tiền. Cha không phải là một học sinh giỏi, cha thường không làm bài tập về nhà và cũng không tập trung nghe giảng ở lớp. Cha không tự tin lắm và ông con thường rất tức giận vì cha. Có lần cha lấy trộm một chiếc ô tô trên phố và lái vào ga-ra nhà mình làm ông giận điên người. Cha phải mất sáu năm mới học xong đại học (Đại học Brown). Điều duy nhất cha thích là lái máy bay. Cha gia nhập không quân khi chiến tranh đã kết thúc và quyết định trở thành một phi công nhưng ông con không đồng ý. Ông cương quyết bắt cha phải vào IBM và cha buộc phải nghe theo.
Những năm đầu, cha rất chán nản. Cha phải đi khắp mọi miền đất nước để gặp hết người này đến người khác. Cha thực sự không hình dung được công việc ra sao cả. Ông con và cha cứ tranh cãi với nhau suốt. Đó là lý do cha vẫn cứ tiếp tục theo đuổi trò bay lượn trên không và dong buồm trên biển để tìm chút thư giãn giữa những áp lực của công việc. Hồi tưởng lại, cha nghĩ ông con biết rõ điều gì tốt đối với cha. Ông đã có lý khi buộc cha vào làm IBM nhưng lúc đó cha chưa nhận ra được tâm ý của ông. Cha chỉ muốn làm những điều cha thích nhưng không được đáp ứng nhiều lắm.
Nếu được chọn lại lần nữa, có lẽ cha cũng không thay đổi gì. Nghĩ lại, cha thích cuộc sống đã qua nhưng trong thâm tâm cha luôn tự hỏi rằng liệu mọi việc có tốt hơn không nếu cha được tự do làm những gì cha muốn. Cha không tài cán gì ngoại trừ việc lái máy bay, và đó là lý do cha luôn thích máy bay. Cha tin rằng con sẽ thích những gì mà con tinh thông về nó. Cha thích nói chuyện kinh doanh khi còn ở IBM nhưng cha ít quan tâm đến những công việc hàng ngày ở đó.
Thần tượng của cha là các nhà phiêu lưu mạo hiểm như Thuyền trưởng Cook (người khám phá ra New Zealand và châu Úc Thế kỷ XVIII), như anh em nhà Wright (hai ông tổ của ngành hàng không). Cha luôn yêu mến Lindbergh (Charles Lindbergh, phi công người Mỹ đầu tiên một mình lái máy bay vượt Đại Tây Dương từ New York đi Paris vào ngày 21/05/1927) và những người biết sống cho những giấc mơ của họ. Các chiến công hiển hách trong lịch sử luôn hấp dẫn cha. Cha nghĩ rằng cha thích khám phá những nơi chưa ai đặt chân tới. Thám hiểm Bắc Cực là một giấc mơ lớn mà cha đã hoàn tất, thật là tuyệt vời.
Cha đã phạm rất nhiều sai lầm vì sự ngu dốt, vì tính nóng giận, và vì nhiều điều khác nữa. Đó là lý do nhiều người điên đầu vì những thất bại triền miên của cha. Tuy nhiên, nếu không sai lầm có lẽ cha sẽ không bao giờ biết cố gắng trong chuyện gì cả. Cha nghĩ sợ hãi là một động cơ vĩ đại cho hành động. Hãy luôn cố gắng và con sẽ quen thuộc với nó, có vấp ngã thì con mới cứng cỏi hơn được.
Khi mới vào làm IBM, cha có một cố vấn vĩ đại, ông thực sự làm cho cha cảm thấy có thể làm được việc nên cha đã cố gắng hơn. Cố vấn thực sự có vai trò rất quan trọng và cha đang cố gắng làm một nhà cố vấn hữu dụng cho các bạn trẻ. Cha muốn nói với lớp trẻ mới vào đời hôm nay rằng hãy dám nghĩ dám làm. Hãy đột phá những cái mới dù tận cùng có thể không phải là thành công. Hãy sẵn sàng nắm bắt cơ hội và chấp nhận mạo hiểm. Cha tin cha đã nhiều lần mạo hiểm. Cha từng làm ông con xanh mặt khi bảo ông cổ phần hóa IBM. Ông con chưa bao giờ muốn vay tiền ngài Morgan (ông chủ nhà băng nổi tiếng thời đó của Mỹ và cả thế giới - ND) nhưng cuối cùng cha đã thuyết phục được ông. Ông con nghĩ rằng cha hoàn toàn sai nhưng ông vẫn cho cha một cơ hội. Rõ ràng là mọi việc đã trở nên tốt đẹp. Sáng lập ra một công ty không phải là chuyện dễ nhưng cha tin rằng cha có thể làm việc đó tốt hơn ông. Thực sự nhiều năm dài cha không tin vào bản thân mình nên chính điều đó đã gây ra nhiều rắc rối trong tâm tính cha. Cuộc đời đi theo từng bước chân của con, đôi khi con bước sai nhịp và con phải điều chỉnh lại. Riêng cha, cha đã phải làm lại khá nhiều lần.
Định nghĩa của cha về thành công à? Ồ -  khó đấy. Cha nghĩ  thành công là làm một công việc đúng đắn, có ý nghĩa; là tạo ra tầm ảnh hưởng; là sở hữu một công ty riêng như lớp trẻ hiện nay đang làm. Cũng có thể thành công là việc nuôi dạy con cái nên người. Đó luôn là một câu hỏi khó trả lời đối với cha.
Cha nhớ khi xây ngôi nhà này để chúng ta dọn về Vermont, nửa chừng chúng ta hết tiền và cha nghĩ: “Mình đúng là ngốc khi nghĩ rằng mình có thể làm được việc này”. Nhưng cuối cùng cha đã hoàn thành nó. Con có nhớ những năm tháng đẹp nhất chúng ta từng có với nhau? Cha thích mang con theo trên những tầng mây, đi thật xa khỏi IBM và cha cảm thấy thật hạnh phúc khi ở bên các con. Thành công nghĩa là có một nơi để gia đình chúng ta quây quần bên nhau và tận hưởng thú vui trượt tuyết. Đó mới thật sự là điều mà cha luôn yêu thích.
THOMAS J. WATSON JR. Nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị IBM
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

P13: Vì Sao Họ Thành Công - Tập 1

Đừng sợ phạm sai lầm!
 “… Bất cứ ai muốn thành công trong kinh doanh ngày nay đều phải có khả năng đương đầu với rủi ro. Tôi không tin rằng họ chưa từng kinh qua một nỗi sợ hãi nào đó trên con đường sự nghiệp của mình. Học được cách đối phó với sợ hãi không có nghĩa là sợ hãi sẽ biến mất, mà điều đó nói lên rằng bạn biết cách đi đến thành công từ trong sợ hãi.”
- John Sculley

Tôi đã khá từng trải để có thể nhìn lại và biết được những gì tôi thích hoặc không thích, những gì tôi làm tốt và chưa tốt. Tôi biết mình thuộc típ người ưa sáng tạo và thích khai phá những ý tưởng mới để thành lập các công ty kinh doanh trong các lĩnh vực mới phù hợp với nền kinh tế hiện đại.
Đối với những công ty đang ở giai đoạn phát triển, chúng tôi giúp họ bằng cách hỗ trợ tiếp thị, quản lý nhân sự, và kêu gọi đầu tư. Trước đây, khi còn điều hành một công ty lớn, tôi chỉ sử dụng một quỹ thời gian rất nhỏ để làm những việc đó.
Hiện tại tôi thoải mái hơn nhiều khi không còn phải chịu áp lực từ công việc quản lý và điều hành ở nhịp độ cao như trước kia. Tôi có thể dành toàn bộ thời gian vào những công việc tôi thật sự ưa thích. Bạn có thể được thăng chức vì làm việc xuất sắc trong một lĩnh vực nào đó nhưng khi bạn là một tổng giám đốc điều hành, bạn phải am hiểu tất cả mọi lĩnh vực! Nhìn lại, tôi thấy phấn đấu trở thành CEO thật sự thú vị hơn làm việc ở cương vị CEO. Thành công là một hành trình, chứ không phải là một điểm đến.
Đối với tôi, kinh doanh là một công việc rất lý thú. Bạn có thể tự do chọn người mà bạn tin tưởng để giao nhiệm vụ. Bạn sẽ không làm được như thế ở một công ty lớn vì bản thân bạn cũng do người khác tuyển dụng. Là doanh nhân, tôi tin tưởng chính mình vì tôi đầu tư bằng tiền của tôi và mọi người đã tin tưởng góp vốn kinh doanh với tôi và tin rằng tôi sẽ mang lại lợi ích cho cả nhóm.
Tôi tin rằng việc hoạch định các mục tiêu trong đời là cực kỳ quan trọng. Nếu có một điều ước, tôi ước gì tôi đã rời Pepsi và Apple sớm hơn để trở thành một doanh nhân độc lập. Phải chi tôi nghe theo tiếng nói bên trong của bản thân mình để thực hiện điều đó sớm hơn. Thế thì điều gì đã ngăn tôi nghỉ việc ở Pepsi hay Apple? Tôi lớn lên trong những chuẩn mực đạo đức mà lòng trung thành rất được coi trọng, nên tôi đã xem lòng trung thành là kim chỉ nam cho hành động thay vì tuân theo tiếng nói của bản thân.
Tôi không tin ai đã từng thành công trong kinh doanh mà chưa từng đối diện với nỗi lo sợ. Nếu bạn chấp nhận mạo hiểm để đạt được những điều lớn hơn, bạn sẽ luôn quan tâm đến những đối thủ cạnh tranh bên cạnh bạn và phía sau bạn, hoặc những tác động có thể tạo ra những thay đổi không mong muốn trên thị trường, hoặc những quyết định có thể dẫn đến sai lầm trong tổ chức của bạn. Cũng giống như các vận động viên thường căng thẳng trước các giải đấu lớn - họ sợ thất bại. Nhưng điều đó thực sự rất tích cực vì nó tạo sự hưng phấn cho bạn, làm bạn trở nên nhạy bén hơn trong suy nghĩ và hành động vào những thời điểm khó khăn.
Có nhiều nỗi sợ khác nhau và nhiều cách xử lý khác nhau. Có người chọn biện pháp an toàn ngay từ đầu để tránh rủi ro về sau. Có người lại sẵn sàng chấp nhận rủi ro và đánh cược cuộc đời và sự nghiệp của mình với nó. Tôi nghĩ, trong kỷ nguyên này, rủi ro cũng lớn như phần thưởng. Hệ quả là, bất cứ ai muốn thành công trong kinh doanh ngày nay đều phải có khả năng đương đầu với rủi ro. Tôi không tin rằng họ chưa từng kinh qua một nỗi sợ hãi nào đó trên con đường sự nghiệp của mình. Học được cách đối phó với sợ hãi không có nghĩa là sợ hãi sẽ biến mất, mà điều đó nói lên rằng bạn biết cách đi đến thành công từ trong sợ hãi.
Giờ đây tôi đã dày dạn hơn nhiều, những gì từng làm tôi lo lắng hai mươi năm trước hầu như không còn làm tôi chao đảo nữa. Tôi đã đối mặt và giải quyết vô số các tình huống khó khăn trong suốt hai thập niên làm việc nên cái được lớn nhất của tôi là kinh nghiệm. Ngày nay, những doanh nhân năng động nhất thường là những người trẻ tuổi nhất, nhưng họ lại thiếu kinh nghiệm và sự từng trải của thế hệ chúng tôi. Họ sợ phải đối mặt với những rủi ro mà chúng tôi đã không còn sợ nữa.
Chớp thời cơ hoặc phạm sai lầm trong kinh doanh đều mang đến những kinh nghiệm đáng giá và thú vị. Tuy nhiên, dù có là hậu quả từ những sai lầm thì cũng không đến nỗi quá tệ như bạn nghĩ. Thậm chí trong những tình huống cam go nhất, vẫn có những tia sáng xuất hiện cuối đường hầm. Tôi học được từ những sai lầm của mình nhiều hơn từ những thành công. Thật thế, bạn không nhớ nhiều về những chiến tích của mình đâu, nhưng sai lầm thì bạn chẳng bao giờ quên. Cho nên, đừng sợ phạm sai lầm!
Sai lầm lớn nhất mà tôi đã phạm phải là đánh giá sai một số người và tin những người không đáng tin. Để rồi, sau khi tin tưởng và trung thành với họ, họ ngoảnh mặt làm ngơ và đâm sau lưng tôi. Đó là sự mù quáng lớn nhất của đời tôi.
Lúc còn bé, tôi rất muốn trở một nhà phát minh, nghệ sĩ hoặc một nhà thiết kế. Tôi thật sự  quan tâm đến những gì có tính sáng tạo và chưa bao giờ mơ rằng mình sẽ trở thành một doanh nhân. Cha tôi là luật sư ở New York còn mẹ tôi là một họa sĩ. Tôi nghĩ tôi được thừa hưởng tính sáng tạo từ mẹ vì hầu như họ hàng bên ngoại tôi ai cũng có khả năng hội họa. Cha tôi là một sinh viên giỏi nhưng không sáng tạo. Ông muốn anh em chúng tôi phải thành công trong kinh doanh, trong đó ít nhất một đứa phải là luật sư tài danh vì ông luôn quan niệm rằng "hổ phụ sinh hổ tử". Tôi nghĩ họa chăng tôi là một luật sư kinh khủng thì đúng hơn vì chưa bao giờ tôi thích nghề này. Cuối cùng, không ai trong hai anh em chúng tôi trở thành luật sư mà đều trở thành những doanh nhân thành đạt.
Tôi là anh cả và là người duy nhất có máu nghệ sĩ. Lúc nhỏ, hễ rảnh ra là tôi xây đắp, tô vẽ, chạm trổ và “nghiên cứu” các loại đồ dùng điện tử. Tôi từng đến khu chợ trời Courtland ở New York để mua đồ cũ về lắp ráp thành máy thu phát sóng. Mười hai tuổi tôi đã là một người chơi vô tuyến điện nghiệp dư và có thể trò chuyện với nhiều người xa lạ trên các tần số vô tuyến. Chúng tôi cố gắng bắt liên lạc với nhau ở những khoảng cách từ năm trăm đến một ngàn dặm, nói chung càng xa càng tốt để tăng thêm phần cảm hứng và cảm giác chiến thắng của kẻ chinh phục. 
Con người tôi luôn có hai nửa: một nửa dành cho những ước mơ và sáng tạo còn nửa kia thì thích gặp gỡ mọi người. Mười một tuổi, tôi được vào trường nam và làm lớp trưởng sáu năm liền. Tôi cũng là thành viên đội bóng đá và nhiều hội đoàn khác nhau trong trường học. Tôi có nhiều mối quan tâm vào lúc đó nhưng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện kinh doanh. Tôi vẫn nghĩ mình sẽ trở thành một nhà phát minh đại tài nhưng không nghĩ nhà phát minh sẽ làm ra tiền như thế nào. Tôi không bao giờ quan tâm đến việc kiếm nhiều tiền. Tôi chỉ quan tâm thực hiện những gì khác biệt và nghĩ rằng như thế mới là “anh hùng”.
Ông ngoại tôi mới thực sự là cố vấn của tôi. Ông cũng là một nhà phát minh. Vào đầu thế kỷ XX, ông là một thành viên trong nhóm thiết kế chế tạo ra chiếc tàu ngầm đầu tiên trên thế giới. Thời niên thiếu, tôi rất thích đến thăm ông và chúng tôi thường dậy sớm, khoảng 4 giờ 30 sáng, để trò chuyện về những ý tưởng có vẻ như rất viển vông như xây dựng một nhà máy lọc nước biển thành nước ngọt hoặc lấn biển lấy đất, hoặc thảo luận về thuyết tương đối và du hành trong không gian và nhiều chuyện đại loại như thế. Đó quả là những năm tháng rất tuyệt vời.
Tôi không muốn học đại học. Tôi chỉ muốn vào trường mỹ thuật thiết kế nhưng cha tôi sỉ vả tôi thậm tệ mỗi khi tôi hé ra rằng tôi đang có ý nghĩ đó. Cuối cùng cha và tôi đi đến một giải pháp nhượng bộ lẫn nhau: tôi sẽ vào Đại học Brown và học Trường Mỹ thuật Thiết kế Rhode Island. Rồi tôi lại thay đổi ý nghĩ khi học đến môn kiến trúc. Tôi nhận ra tôi không thích làm kiến trúc sư vì phải làm việc dưới quyền người khác trong công ty hay một tổ chức nào đó, ngay cả đó là Sở Quy hoạch Kiến trúc Thành phố hay một công ty tư vấn thiết kế nổi tiếng. Sau cùng tôi nhận ra kiến trúc không phải là ngành tốt nhất đối với tôi. Thứ nhất, tôi muốn có một công việc có tính sáng tạo và tôi không nghĩ rằng lĩnh vực này có thể cho tôi cơ hội đó. Thứ hai, ngành này có rất ít công việc nên khó lòng làm ra tiền. Cuối cùng, từ những gì tôi nhìn thấy nơi các công ty thiết kế kiến trúc, tôi thấy đó không phải là phong cách sống của tôi. Tôi quyết định sẽ làm chủ lấy mình. Tôi vào trường kinh doanh và lấy bằng MBA (Master of Business Administration - Thạc sĩ quản trị kinh doanh). Thời đó, tiếp thị chỉ được xem là một ngành bổ trợ cho việc bán hàng và thường được thực hiện thông qua các công ty quảng cáo chứ không do doanh nghiệp tự đảm trách. Mọi người chưa hiểu hết sức mạnh của nó. Vì thế, sau khi tốt nghiệp, tôi làm cho một công ty quảng cáo và rất thích lĩnh vực sáng tạo này. Nhưng vì một số lý do, tôi đã bỏ ngành quảng cáo và làm nghiên cứu thị trường cho Tập đoàn Coca Cola. Cuối cùng, tôi nghỉ việc ở công ty quảng cáo và chuyển sang làm việc cho Pepsi.   
Làm việc tại Pepsi hoàn toàn khác biệt với công ty quảng cáo vì đó là một công ty sản xuất. Tôi cũng là người đầu tiên có bằng MBA được Pepsi tuyển dụng nên họ không biết bố trí tôi làm việc gì. Họ cho tôi điều hành đội vận chuyển hàng hóa để học kinh doanh. Tính tôi ham học hỏi nên đã tìm hiểu và cải tiến được rất nhiều thứ. Nghĩ cũng buồn cười, ít năm sau đó, khi trở thành Giám đốc tiếp thị của Pepsi, việc đầu tiên tôi làm là sử dụng những kinh nghiệm đã nắm bắt được từ chương trình huấn luyện ấy để thiết kế lại các phương tiện vận tải hàng hóa sao cho phù hợp với sản phẩm lon, chai của Pepsi. Những thiết kế của tôi cuối cùng được sử dụng trong ngành công nghiệp nước giải khát trên khắp thế giới (tức những chiếc xe thớt chở bia hay nước ngọt chúng ta thường thấy trên đường ngày nay - ND).
Luôn có một kiểu mẫu nhất quán trong từng công việc mà tôi đã làm - đó là tôi luôn định nghĩa lại công việc để có thể làm những gì tôi thích. Đôi khi điều này đem lại những thành công ngoài sức tưởng tượng. Những lúc Pepsi và Apple cần những ý tưởng sáng tạo để thay đổi những nguyên tắc sáo mòn là lúc tôi cảm thấy phấn khích nhất. Tôi coi trọng sự uyển chuyển lựa chọn các cơ hội trong điều kiện nhiều thay đổi đang diễn ra từng giờ từng phút. Những ý tưởng sáng tạo có thể tạo ra sự khác biệt rất lớn, và những kinh nghiệm tôi tích lũy được qua nhiều thập niên có thể mang lại những cơ hội thành công tốt đẹp hơn trước những tình huống đầy mạo hiểm.
Khi còn bé, chúng ta hay có nhiều thần tượng. Khi có tuổi, ít ai nghĩ đến việc tìm kiếm cho mình một tấm gương. Tôi từng rất ngưỡng mộ Leonardo da Vinci ở khả năng nhìn trước thời đại và phát minh ra những giải pháp cho các vấn đề hóc búa của đời sau. Ngày nay, cuộc sống thay đổi nhanh đến mức chúng ta khó lòng tìm thấy một thần tượng. Nếu bạn chỉ hiểu vấn đề theo một cách duy nhất thì bạn chưa hiểu gì cả. Nếu bạn chỉ nhìn sự việc qua lăng kính truyền hình hoặc báo chí, bạn sẽ làm méo mó tầm nhìn của bạn. Những gì bây giờ nghe rất hiển nhiên nhưng ba, bốn năm về trước thì không hiển nhiên chút nào. Ngày nay, mọi quyết định đều phải được đưa ra một cách nhanh nhất. Nghịch lý là ở chỗ, nếu muốn vậy thì người ra quyết định phải nắm càng nhiều thông tin càng tốt, nhưng hầu như tất cả các thông tin đó đều sai lệch cả. Nhiều người biết điều đó nên họ chỉ thích dựa vào trực giác của mình trong lúc phán đoán và quyết định.
Ở phần đầu, khi nói về sai lầm lớn nhất tôi phạm phải, tôi nói đó là sự đánh giá lầm về con người. Tuy vậy khi tôi hồi tưởng lại những chuyện đó thì trong đa số các trường hợp, nếu tôi nghe theo trực giác của mình thì tôi đã xử sự khác đi. Vấn đề là, tôi cũng như nhiều người khác đã mâu thuẫn ngay từ những nguyên tắc đầu tiên. Tức là, trước hết phải tin vào trực giác của mình và sau đó mới là lòng trung thành. Hai điều này có thể mâu thuẫn nhau. Khi tôi đánh giá nhầm người, đó là vì tôi đã quá trung thành hoặc biểu lộ lòng trung thành quá vội vã. Hơn một lần, tôi đã không nghe theo trực giác của mình và để lòng trung thành lấn át. Hình như nếu không lặp lại sai lầm thì chúng ta không khá lên được. Đó là lý do tại sao tôi nói rằng kinh nghiệm rút ra từ sai lầm quý giá hơn nhiều so với những kinh nghiệm được đúc kết từ thành công của chúng ta.
Kết luận
John Sculley là típ người đặc biệt sáng tạo, có trách nhiệm cao trong công việc và hầu như trung thành tuyệt đối khi làm thuê cho bất cứ ai, dù đó là Apple, Pepsi, hay một công ty quảng cáo không tên tuổi nào đó. Ông có tài tiếp thị và một tầm nhìn rộng. Cũng như Nick Nickolas, ông ao ước sử dụng tài năng kinh doanh của mình sớm hơn để có thể làm những gì ông thích (chứ không phải những việc mà cấp trên của ông thích). John cũng đề cập đến nỗi sợ hãi và ảnh hưởng của nó đối với sự thành công của bất kỳ ai. Theo ông, mạo hiểm là điều không thể thiếu trong kinh doanh, nhưng sự thiếu hiểu biết về nó thường gây ra sợ hãi và thành công nghĩa là phải sống chung với nỗi sợ và biết cách vượt qua nó.
John rất quý những kinh nghiệm ông đã gặt hái được trong sự nghiệp của mình và đặt chúng vào thế so sánh với những ưu điểm trong công việc của giới trẻ ngày nay. Sức mạnh và sự thông minh của tuổi trẻ không phải luôn là nhân tố quyết định mọi thành công trong kinh doanh, mà còn có cả sự từng trải trên thương trường. Nhiều thập niên lăn lộn trong ngành tiếp thị đã giúp ông trở nên dày dạn hơn và không sợ phạm sai lầm, vì theo ông, sai lầm mang lại những bài học đáng giá gấp bội so với thành công.
Năng lực hồi tưởng và khả năng tự đánh giá một cách khiêm tốn là một trong những đức tính đáng quý của bất cứ nhà lãnh đạo, doanh nhân, hay chiến lược gia nào trong quyển sách này. John nhìn thấy căn nguyên dẫn đến sai lầm của mình là việc đánh giá lầm người khi lẫn lộn những nguyên tắc quản lý đầu tiên. Đó là sự mâu thuẫn giữa sự mách bảo của trực giác và tiếng nói của lòng trung thành. John không đưa ra một công thức chung nào để giải quyết mâu thuẫn này. Thay vào đó, ông kết thúc buổi phỏng vấn với một gương mặt đầy suy tư, như muốn nhắn nhủ rằng: Hãy cảnh giác với những gì đang xảy ra xung quanh bạn, luôn làm hết khả năng, và hãy kiên nhẫn với chính mình.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

Alice Waters - Nhà sáng lập, chủ nhân nhà hàng Chez Panisse

Alice Waters, một đầu bếp trứ danh và là chủ nhân chuỗi nhà hàng Chez Panisse - California danh tiếng tại Hoa Kỳ. Bà sắp sửa mở một nhà hàng trên Tháp Eiffel theo đề nghị của Chính phủ Pháp.
Lần đầu tôi gặp bà vào một buổi tối mùa thu tại nhà Susie Tompkins (nhà sáng lập, chủ Công ty thời trang Esprit, đã được giới thiệu ở phần trước) tại một thị trấn ven biển thuộc  quận Marin, California. Khi tôi đến, Susie đang sửa soạn bữa tối mời chúng tôi. Susie quả là can đảm khi dám múa rìu qua mắt thợ. Alice là một phụ nữ nhỏ nhắn với gương mặt tinh nghịch như trẻ thơ, tóc nâu ngắn, thẳng và một nụ cười có sức thu hút đặc biệt.
Bà thường đội một chiếc mũ nhỏ trông như một cô gái mới lớn ở những năm 1920, và dưới vành mũ ấy là những cái nhìn kín đáo bà dõi sang bạn. Nhìn bà, khó ai có thể nghĩ đó là một người có khả năng phi thường. Chúng tôi có một bữa ăn tối thú vị. Alice nói về cuộc sống và về Fanny, con gái bà, trong niềm hạnh phúc tràn trề. Dường như mọi thứ trên đời này đều có thể làm bà ngạc nhiên và thích thú.
Lần thứ hai tôi gặp bà cũng chính là lần tôi đến phỏng vấn bà tại nhà hàng Chez Panisse vào một buổi trưa. Chez Panisse vẫn tọa lạc tại vị trí cũ ở Berkeley như từ hồi mới được khai trương vào những năm 1970. Nó vẫn giữ được bản sắc tỉnh lỵ rất riêng của mình bằng lớp gỗ ốp tường màu nâu bên ngoài và những căn phòng góc cạnh tạo ra một không gian thật yên tĩnh. Nhà hàng chỉ phục vụ bữa trưa và tối với thực đơn có giá cố định. Thực khách phải đặt chỗ trước nhiều ngày vì du khách quốc tế khi đến tham quan Berkeley cũng đổ vào đây thưởng thức những món ngon nổi tiếng thế giới.
Khi bà bắt đầu nói về sự nghiệp của mình thì sự từng trải của bà hiển hiện. Chúng tôi thường bị ngắt quãng bởi các trợ lý và nhân viên của bà đến xin ý kiến về một số vấn đề nào đó. Alice đối xử với họ rất lịch sự và kiên nhẫn. Bà luôn xem nhân viên là những thành viên trong gia đình mình và vì thế họ luôn hết lòng với bà. Từ khi mới bước vào ngành kinh doanh này, bà đã có ý tưởng về việc chế biến các món ăn thật tươi, thật ngon và bà đã theo đuổi nó đến cùng. Ngay trước cuộc phỏng vấn này, bà đã nhận được cơ hội mở một nhà hàng ở trên Tháp Eiffel - Paris, tột đỉnh vinh quang của một đầu bếp Mỹ.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

Bạn phải yêu mọi việc bạn làm trong từng hơi thở
“…Không hẳn kinh doanh là phải kiếm thật nhiều tiền bằng mọi giá. Có thể bạn không phải là tỉ phú, nhưng trên tất cả là bạn cảm thấy mãn nguyện với những việc mình làm.”
- Alice Waters

Tôi lớn lên ở Chatham, New Jersey, một thị trấn nằm cách Newark hơn hai mươi cây số về hướng Đông Bắc. Nơi đó quá nhỏ nên mọi người đều quen biết và hiểu rõ về nhau. Tôi có một thời thơ ấu bình thường như bao đứa trẻ khác cùng với chị và em gái; ba chị em tôi đều cách nhau hai tuổi.
Gia đình tôi thuộc tầng lớp bình dân. Cha tôi làm việc cho Công ty bảo hiểm Prudential. Hồi chiến tranh Thế giới thứ II, nhà tôi có một khu vườn lớn và mẹ tôi thường đóng hộp trái cây và rau quả từ khu vườn này. Đó là ký ức đầu đời của tôi. Chúng tôi sống trong một căn nhà nhỏ và dần dà chúng tôi dọn đến một ngôi nhà lớn hơn nhưng cũng rất ít tài sản bên trong.
Thuở thiếu thời, công việc đầu tiên của tôi là bưng bê thức ăn, nước uống tại một bãi chiếu bóng ngoài trời phục vụ khán giả ngồi trong ôtô có tên gọi là The Country Cousin ở thành phố Michigan, bang Indiana. Công việc thứ hai là chạy bàn cho một tiệm bánh mì kẹp xúc xích nóng của Công ty Whiskey & Whiskey. Cả hai việc này tôi chỉ làm trong một thời gian ngắn.
Khi đó, tôi không có nhiều kỳ vọng lắm trong đời. Tôi nghĩ mình sẽ lặp lại chính xác những gì chị tôi đã làm là lập gia đình ngay sau khi tốt nghiệp. Tôi đoán thế nào tôi cũng được một ai đó yêu thương và chăm sóc. Nói chung là tôi chưa có một cái nhìn rõ ràng nào về tương lai của mình. Tôi sẽ vào đại học và không bao giờ nghi ngờ về chuyện đó.
Tuy nhiên, cuộc đời tôi đã thật sự thay đổi khi tôi đến Pháp vào năm mười chín tuổi và khám phá ra một thế giới kỳ diệu tại thiên đường của nghệ thuật ẩm thực này. Tôi là đứa kén ăn và chỉ thích một vài món như đậu ve, cà chua, bắp non. Ở Mỹ, hầu như mọi thứ đều được chế biến sẵn, chúng tôi chỉ việc mua về và… xơi. Nhưng nước Pháp đã mở rộng tầm mắt cho tôi. Tôi như thoát ra khỏi một giấc ngủ mê và mọi giác quan của tôi đều bị kích thích cao độ bởi những món ăn thơm lừng, được trình bày đẹp mắt và ngon tuyệt vời. Tôi đã “phải lòng” phong cách ẩm thực Pháp và bắt đầu tìm hiểu sâu về nó. Vì thế, thay vì vào đại học, tôi quyết định đến Pháp để học làm đầu bếp.
Tôi học ở Pháp một năm. Cùng với một người bạn, chúng tôi đi du lịch khắp nước Anh rồi vùng Normandy, nếm đủ mọi loại thực phẩm và các món ăn ở đó. Thật thú vị khi ngồi chung một bàn và kết bạn với người bán bánh mì cho bạn. Những mối giao hảo bạn bè khắp nơi như thế làm cho cuộc đời bạn thêm nhiều hương sắc.
Tôi đi dạy ngay sau khi tốt nghiệp đồng thời làm phụ bếp cho bạn bè. Ngẫu nhiên và hạnh phúc làm sao, tôi chọn đúng những cuốn sách nấu ăn của Elizabeth Davis, một tác giả người Anh, tại một hiệu sách nhỏ của một người bạn ở Berkeley. Một cuốn viết về thực phẩm Pháp và một cuốn về cách nấu các món ăn đồng quê Pháp. Tôi nấu mọi thứ từ đầu đến cuối quyển sách cho các bạn tôi. Và rồi tôi nhận ra rằng mình thích nấu ăn hơn là dạy nấu ăn. Tôi tự hỏi: “Sao mình không mở một quán cà phê có phục vụ ăn uống nhỉ?”.  Một bước đi không kém phần quan trọng trong sự nghiệp của tôi là kinh nghiệm từ việc cộng tác viết bài cho tờ Thời báo San Francisco. Họ nghĩ tôi rất rành về nấu ăn nên đề nghị tôi với David Golds, một người bạn, phụ trách mục ẩm thực. Anh ấy trang trí, minh họa hình ảnh còn tôi viết các công thức nấu nướng. Thật sự tôi chưa biết gì nhiều nên đã gọi cho các bạn tôi, nhờ tư vấn ở La Rue Gastronomique và đọc vô số sách về ẩm thực để chế biến bất cứ món gì. Đó là một bước đệm quan trọng trước khi tôi mở nhà hàng của riêng mình.
Tôi mở nhà hàng đầu tiên vào năm hai mươi sáu tuổi bằng một ngàn đô la vay mượn. Tôi cứ ám ảnh với ý nghĩ phải nấu bằng được các món ăn mà tôi từng được thưởng thức ở Pháp. Tôi từng có ý nghĩ ngô nghê rằng tôi sẽ nấu và chỉ phục vụ tất cả bạn bè thì tôi cũng đủ kiếm sống qua ngày. Nhưng thật tình mười lăm năm qua tôi ít khi gặp lại họ vì quá bận rộn với các nhà hàng của mình. Lúc đầu tôi không tự tin lắm nên thuê một người làm bếp trưởng. Ông ấy là cộng sự đầu tiên của tôi.
Nhưng chưa đầy tám tháng sau, ông ấy rút lui vì muốn theo ngành sản xuất phim ảnh. Chúng tôi thuê một người khác. Chúng tôi làm quần quật từ 7 giờ sáng đến 2 giờ khuya và chẳng mấy chốc lỗ mất 40.000 đô la! Tôi gọi cho một người bạn đang có một cửa hiệu kinh doanh thiết bị nhà bếp ở Berkeley. Cô ấy đến văn phòng và bắt đầu soát xét mọi thứ từ những mảnh giấy vụn ghi chép đến các loại hóa đơn rồi bỏ tiền thanh toán mọi nợ nần cho chúng tôi và trở thành một cổ đông lớn khi đó. Thực sự, tôi không bao giờ có ý nghĩ đầu hàng. Nhưng nếu tôi không gặp cô ấy, tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Về sau, cô ấy nhượng lại toàn bộ cổ phần của mình cho một nhóm người hiện đã trở thành cộng sự của tôi ngày nay.
Tuy vậy, theo một khía cạnh nào đó, nhà hàng của chúng tôi đã thành công ngay từ lúc mới mở. Tôi thường quan sát các dĩa thức ăn của khách và nếu có ai bỏ món, tôi sẽ bước ra ngay để tìm hiểu nguyên do. Tôi đánh bạo hỏi họ, và đôi khi họ nói: “Ồ, chỉ tại tôi không biết ăn món này thôi!” hoặc “Tôi nghĩ món này nấu quá chín”. Tôi nấu lại món đó ngay và phục vụ họ miễn phí. Thế là lần sau họ lại đến với chúng tôi.
Cha tôi là một nhà tâm lý học quản trị, ông sở hữu và điều hành một công ty riêng và có lẽ tôi được thừa hưởng một chút gen quản lý của ông. Ông luôn bị công việc ám ảnh. Còn tôi thì chưa bao giờ nghĩ rằng tôi kiếm ra tiền nhờ nhà hàng mà cho rằng điều đó chỉ xảy ra nếu tình hình thuận lợi. Điều tôi quan tâm nhất là nhà hàng này phải thật hoàn hảo. Kinh doanh có thể thất bại nhưng món ăn phải thật ngon. Tôi làm việc với quan niệm đó và cuối cùng đã may mắn thành công trong kinh doanh.
Tôi không muốn mở thêm một Chez Panisse nào khác vì nghĩ rằng điều quan trọng là phải làm cho nó trở thành ngôi nhà thứ hai của mọi nhân viên của mình. Một lý do khác là thật khó mà kiểm soát thấu đáo mọi hoạt động ở các chi nhánh khác. Tôi nghĩ chỉ có vài chủ nhà hàng có thể quán xuyến được chuyện này. Ở đây, chúng tôi luôn có một bầu không khí gia đình đầm ấm. Mọi nhân viên hầu hết đều là bạn bè của tôi.
Tôi cũng may mắn vì James Beard đã đến đây rất sớm - có lẽ vào năm 1975 hoặc sớm hơn nữa. Ông viết bài về nhà hàng và cách thức các đầu bếp trẻ đang thử nghiệm những phong cách ẩm thực mới. Tôi cũng có dịp đi New York để thi nấu ăn ngoài trời, chuyện đó thật là to tát đối với tôi. Tôi được chọn cùng ba đầu bếp Pháp và một đầu bếp Mỹ khác. Tôi đã thực hiện một thực đơn rất tuyệt vời. Đó là một  ngày đầu xuân ở Công viên Trung tâm New York và là một kỷ niệm đẹp của đời tôi.
Hãng Hàng không Hoa Kỳ cũng mời tôi tham gia Hiệp hội Bếp trưởng gồm mười hai thành viên. Tôi dự họp mỗi năm một lần. Một vài đầu bếp phải họp thường xuyên hơn để tư vấn các công thức nấu nướng mới. Tôi không làm thế vì tôi không có nhiều thời gian.
Rồi tôi nhận ra tôi không thể đi xa hơn nếu cứ bó mình trong một ốc đảo. Tôi  bắt đầu tham gia các chương trình của Trường dạy nấu ăn King và Trường Edible Schoolyard. Tôi tin cách duy nhất có thể thay đổi thế giới là dạy cho trẻ em những giá trị thiết yếu của cuộc sống. Chúng phải biết cách giữ đất đai, tự nuôi sống bản thân, lựa chọn đúng hướng đi và thưởng thức các món ăn ngon. Tám mươi lăm phần trăm trẻ em Mỹ không ăn cùng gia đình một bữa nào. Nhưng ít ra chúng cũng có thể ngồi quanh một bàn ăn trưa trong trường học, thưởng thức và bình luận rôm rả về các món ăn do chính tay chúng nấu ra. Đó là một ý tưởng mới, và tôi muốn nó được phát triển rộng rãi trong khắp các trường học trên cả nước để bọn trẻ được chuẩn bị chu đáo trước khi bước vào đời, để chúng hiểu rằng chúng còn có những mối liên kết hữu cơ với những người khác, với không gian và thời gian, chứ không phải tự giam mình trong bốn bức tường, xem tivi, ăn fastfood và bàng quan với mọi chuyện xung quanh. Người lớn nghĩ trẻ con chỉ thích pizza, hamburger, hot dogs, pasta… nhưng thông qua chương trình này, tôi khám phá ra rằng chúng cũng thích  tất cả các món khác với mức độ tương tự.
Khi mở nhà hàng, tôi chưa bao giờ lo nghĩ rằng liệu tôi có thành công hay không. Tôi chẳng cảm thấy chút gì mạo hiểm. Tôi chỉ cảm thấy rằng nếu đi đúng đường, chúng tôi chắc chắn sẽ thành công. Tôi không quan tâm đến tiền bạc. Nếu có ít tiền, tôi sẽ sống theo kiểu ít tiền; tôi không bao giờ chi tiêu quá khả năng của mình. Tôi nghĩ nếu có một ý tưởng hay thì việc làm ra tiền từ đó là chẳng khó khăn gì. Nếu một ý tưởng nào đó không đem lại tiền bạc thì bạn nên tìm cách thay đổi.
Tôi cũng cảm thấy rất may mắn khi đến Pháp vào giai đoạn đó trong đời. Tôi là một giáo viên theo phương pháp Montessori (*) và tôi sử dụng rất nhiều triết lý này vào công việc của mình. Khi tôi làm việc với bọn trẻ thì dù chúng ba tuổi hay mười lăm tuổi, tôi luôn tìm ra điều chúng thích và kích thích chúng tư duy và sáng tạo. Khi thích thì chúng có thể làm việc đó suốt ngày và không biết mệt mỏi gì. Đối với các trường đại học cũng thế, các chương trình phải được mở rộng ra nhiều hướng khác nhau để sinh viên có thể lựa chọn các lĩnh vực họ thích nghiên cứu. Tôi nghĩ chúng ta nên khuyến khích những người có niềm say mê công việc cao độ làm nhà giáo và họ phải được trả lương cao nhất vì sứ mệnh cao cả và cực kỳ quan trọng của họ đối với cả một thế hệ.
Ngày nay, khởi sự kinh doanh là một việc khó. Bạn phải có lòng đam mê. Không hẳn kinh doanh là phải kiếm thật nhiều tiền bằng mọi giá. Có thể bạn không phải là tỉ phú, nhưng trên tất cả là bạn cảm thấy mãn nguyện với những việc mình làm. Tôi nghĩ bạn phải yêu mọi việc bạn làm đến từng chi tiết nhỏ nhất. Hơn một lần tôi nói “Chúng ta sẽ đóng cửa nhà hàng này”, nhưng rồi mọi việc vẫn tiếp tục tốt đẹp cho đến ngày nay. Đó luôn luôn là một thách thức. Nhưng khó mà nói rằng cái này hay cái khác là yếu tố chính quyết định sự thành công của bạn.
Khẩu hiệu của tôi là “Hãy sống bằng đam mê của bạn” và hết sức chú ý đến thế giới xung quanh bạn, chứ không chỉ dừng lại ở con người hay môi trường làm việc. Tôi nghĩ các công ty lớn quá mạo hiểm khi họ đầu tư kinh doanh ở các lãnh thổ khác mà chỉ dựa vào những kết quả khảo sát thị trường về những điều người dân sở tại sẽ thích. Nhưng nếu bạn quen biết các khách hàng của mình, biết họ thích thức ăn bạn nấu, thích chiếc áo bạn may, sự mạo hiểm gần như bị triệt tiêu và khả năng thành công gần như chắc chắn.  Phụ nữ và nam giới trưởng thành theo những khuôn phép, cách thức giáo dục khác nhau nên họ điều hành kinh doanh rất khác nhau. Đàn ông được lập trình theo cùng một hướng còn các bà luôn có một mục đích riêng. Phụ nữ thiên về nuôi nấng giáo dục hơn. Tôi thích cả hai phái, nhất là khi họ có tinh thần hợp tác với nhau, vì khi đó kết quả công việc sẽ cao hơn.
Một yếu tố quan trọng khác là đừng bao giờ ngủ quên trong chiến thắng mà phải luôn làm tốt hơn. Khi đã chinh phục được đỉnh cao này thì người thành đạt lại hướng đến một đỉnh cao mới. Hãy tập trung cao độ trong mọi việc bạn làm, hãy biến cái không thể thành có thể, và xem đó là đam mê của bạn.
Tôi nghĩ ai cũng có tính tò mò ham học hỏi một cách tự nhiên, và họ có thể tìm được niềm vui lớn trong những việc nhỏ nhặt nhất, như tôi vẫn thường nhìn thấy niềm vui của nhân viên mình khi họ đánh bóng các vật dụng bằng bạc, hoặc khi họ dọn bàn ăn. Tôi nghĩ chúng ta thường làm những việc mà chúng ta không biết giá trị thực của nó nằm ở đâu. Vì thế, chúng ta không có khái niệm hay cảm giác về sự thành công. Nếu bạn được cung cấp đầy đủ thông tin và nắm rõ giá trị công việc của mình, bạn sẽ thấy mình quan trọng hơn, tự tin hơn. Bạn sẽ tìm thấy niềm vui khi cống hiến nhiều hơn và thực sự muốn làm được nhiều việc hơn thế nữa.
Làm cho những việc bình thường trở nên có ý nghĩa là điều bạn cần phải học, có thể là từ gia đình hoặc bạn bè, từ trường học, đồng nghiệp hay trong công việc, từ thành công lẫn thất bại và cả từ các đối thủ của bạn… Đó cũng là một phần trong chương trình giảng dạy của chúng tôi tại trường Edible Schoolyard. Tôi luôn xây dựng Chez Panisse thành một nơi làm việc dễ chịu, xinh đẹp cho mọi nhân viên. Tôi không muốn có một mặt tiền sang trọng và một “hậu cung” nhếch nhác với những khuôn mặt thẫn thờ nơi nhà hàng của mình - nhân viên và nhất là các đầu bếp của tôi phải tìm thấy nguồn cảm hứng cho mình. Đó là sự quan tâm của tôi đối với họ và là động lực cho sự sáng tạo và lòng nhiệt tình của họ trong công việc. Bạn phải giao việc đúng người, đúng chỗ và tạo điều kiện làm việc tốt để họ có thể được ghi nhận thành tích vì những cống hiến của mình.
Kết luận
Đối với Alice Waters, chuyến đi Pháp lần đầu tiên năm mười chín tuổi đã đánh thức đam mê tiềm tàng của bà về ngành ẩm thực. Bà say mê ẩm thực Pháp đến mức từ bỏ con đường đại học và sang Pháp để học hỏi phong cách ẩm thực Pháp để rồi sau đó trở về California mở nhà hàng Chez Panisse. Chỉ việc bà được Chính phủ Pháp mời sang mở một nhà hàng trên Tháp Eiffel cũng đủ thấy tên tuổi của bà lừng lẫy như thế nào.
Cũng như các nhà kinh doanh có tầm nhìn xa khác, bà chỉ nhìn thấy con đường của mình khi khám phá ra niềm đam mê nghề nghiệp. Bà cho rằng mình không phải là người mạo hiểm nhưng kỳ thực, chính lòng say mê văn hóa ẩm thực phong cách Pháp đã che lấp cả sự mạo hiểm khi bà dám khởi nghiệp kinh doanh nhà hàng chỉ với một ngàn đô la Mỹ trong tay, mà lại là một khoản tiền hoàn toàn vay mượn.
Bà cũng đóng góp rất nhiều cho cộng đồng, nhất là thông qua các dự án phối hợp thực hiện với King School và Edible Schoolyard. Bà đánh giá rất cao nền giáo dục và vai trò của những người thầy. Trường học là nơi bà chọn để giảng dạy cho trẻ em những giá trị căn bản của cuộc sống, giúp chúng tự tin và có những cái nhìn đầy nhân văn về cuộc sống xung quanh từ những kỹ năng làm vườn, nấu nướng, chuẩn bị các bữa ăn, và thưởng thức các món ăn tự nhiên do chính các em chế biến ra.
Theo Alice, lòng tự tin đến từ mọi việc bạn làm và từ sự thấu hiểu của bản thân về những công việc đó. Alice, một đầu bếp bậc thầy và là một nhà nhân văn, đã minh họa cho triết lý đó bằng con đường đến với nghệ thuật ẩm thực, bằng sự giảng dạy phong cách sống cho thế hệ trẻ và bằng chính cuộc đời bà.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

P14: Vì Sao Họ Thành Công - Tập 1

Faye Wattleton - Nguyên Chủ tịch Tổ chức Planned Parenthood Nhà sáng lập, GĐ điều hành Trung tâm vì Quyền Bình đẳng Giới tính

Faye Wattleton là Chủ tịch Liên đoàn Planned Parenthood Hoa Kỳ từ năm 1978 đến 1992. Trong suốt thời gian đó, bà đã giữ vai trò đấu tranh và tác động đến chính phủ các nước qua các chính sách kế hoạch hóa gia đình nhằm bảo vệ sức khỏe sinh sản của phụ nữ trên khắp thế giới.
Mùa thu năm 1996 bà hợp tác với nhà xuất bản Ballantine Books để viết cuốn tự truyện Life on the Line (tạm dịch: Cuộc sống vẫn tiếp diễn).
Các thành tích của Faye được đánh giá cao. Năm 1993, bà được bầu vào Nhà Danh vọng Phụ nữ Hoa Kỳ. Bà nhận được Giải thưởng Jefferson vào năm 1992 dành cho công dân có nhiều đóng góp tích cực cho sự nghiệp phục vụ công chúng, Giải thưởng Magaret Sanger năm 1992, Giải thưởng của Bộ Y tế Hoa Kỳ vì những đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp y tế cộng đồng, Giải thưởng của Hội nghị các Tổ chức Nhân đạo Black Caucus, Giải thưởng John Gardner 1987 và Giải thưởng Người Phụ nữ Danh dự năm 1986 của Hiệp hội Y tá Hoa Kỳ. Tạp chí Bussines Week bình chọn bà là một trong những giám đốc xuất sắc nhất của các tổ chức phi lợi nhuận Hoa Kỳ. Tạp chí Money bình chọn bà là một trong năm người Mỹ xuất sắc nhất đã giúp định hình lại cuộc sống. Bà cũng tham gia nhiều diễn đàn công cộng và là cộng tác viên của nhiều nhà xuất bản cũng như hãng tin. Faye lấy bằng Cử nhân điều dưỡng Đại học Ohio và tốt nghiệp Thạc sĩ Sản-Nhi Đại học Columbia.
Hiện thời, Faye Wattleton là Chủ tịch Trung tâm vì Quyền Bình đẳng Giới tính, một viện nghiên cứu và phát triển phi lợi nhuận hoạt động vì sự tiến bộ và quyền bình đẳng của phụ nữ tại Hoa Kỳ. Bà cũng có chân trong Ban giám đốc Công ty Estee Lauder, Empire Blue Cross và Blue Shield, Quidel Corporation, Leslie Fay Inc., Henry J. Kaiser Foundation, Viện Giáo dục Quốc tế, Tổ chức vì Môi trường và sự Phát triển của Phụ nữ, và tổ chức Thirteen/WNET.
Tôi phỏng vấn bà tại Trung tâm vì Quyền Bình đẳng Giới tính, trên tầng cao của một tòa nhà ở khu Manhattan. Ngay lập tức tôi bị cuốn hút bởi vẻ đẹp, phong thái tự tin và nét duyên dáng của bà. Với chiều cao hơn một mét tám mươi và sự đáng yêu của mình, bà hoàn toàn có thể theo nghề người mẫu thay vì cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp nâng cao vị thế của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Dù bà rất nổi tiếng và có nhiều ảnh hưởng, tôi vẫn thấy thoải mái khi trò chuyện với bà. Bà quả thực là một người xuất sắc trong giao tiếp, bà nói rất lưu loát, rõ ràng và súc tích và dĩ nhiên không chút sáo rỗng.
Bà bàn về các thành công và thất bại trong sự nghiệp của mình một cách không thiên lệch. Faye là người luôn có ý thức tự bảo vệ mình. Không biết đó là một phẩm chất bà thừa hưởng từ cha mẹ hay từ những yếu tố nào khác. Sự uy nghi toát lên từ con người bà buộc người đối diện phải tỏ lòng kính trọng ngay lần gặp đầu tiên. Khi nói về thất bại của bà lúc không thể vận động thành công một chương trình truyền hình, bà không có chút biểu hiện hay thái độ nào tỏ lòng tiếc nuối hay ta thán. Như nhiều người tôi đã phỏng vấn từ đầu quyển sách tới giờ, bà học được rất nhiều từ thất bại và không bao giờ cho phép mình mãi day dứt với những điều không may. Thất bại không bao giờ là một rào cản không thể vượt qua, mà chỉ là một cơ hội để chúng ta sáng tạo hơn và tiến lên phía trước.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

Bất đồng chỉ có thể giải quyết thông qua thương lượng
“Người ngồi cao nhất phải nhận lãnh tất cả. Đó thực sự là một chiếc ghế rất biệt lập. Trừ phi bạn ngồi vào chiếc ghế đó và đi đúng đôi giày đó, bạn mới có thể đánh giá đầy đủ toàn bộ cái giá mà bạn phải trả…”
- Faye Wattleton

Tôi sinh ra và lớn lên ở St. Louis. Năm tôi bảy tuổi, mẹ tôi quyết định dâng hiến trọn đời mình cho giáo hội. Kể từ đó, chúng tôi chu du khắp nơi vì bà phụng sự khắp các nhà thờ trên toàn quốc. Tôi tin rằng sở dĩ ngày nay tôi có thể giao tiếp tốt với mọi người từ mọi nền văn hóa khác nhau là nhờ tôi được đi nhiều nơi lúc còn bé.
Chúng tôi từng sống hai năm ở một thị trấn toàn người da trắng tại Nebraska năm tôi mười tuổi. Mùa hè, chúng tôi thường đi dự những buổi họp giáo dân tại các nhà thờ miền Nam, Trung Tây và miền Đông.
Tôi đã từng có ý muốn trở thành y tá hay không, tôi cũng không biết nữa. Nhưng nếu có thì đó là do tác động của mẹ tôi. Bà muốn tôi trở thành một y tá tu sĩ, theo bà lý giải, như thế sẽ càng có ích hơn so với một y tá thông thường. Y tá tu sĩ làm việc trong các bệnh viện của nhà thờ ở châu Phi và khắp thế giới. Tôi ngờ rằng ý tưởng này đã làm tôi luôn nghĩ rằng lớn lên tôi sẽ làm y tá. Tôi học được hai bằng về điều dưỡng, nhưng chưa bao giờ thực tập làm y tá. Hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ ngữ, bạn có thể tin rằng tôi đã, đang và lúc nào cũng làm điều dưỡng, nhưng không mang tính chất chuyên môn. Sau khi ra trường, tôi dạy về điều dưỡng hai năm rồi thi vào Đại học Columbia và sau đó lấy bằng Thạc sĩ Sản-Nhi. Sau đó, tôi chuyển về Dayton làm việc cho Sở Y tế bang Ohio. Tại đó, tôi được mời vào Ban giám đốc của Tổ chức Planned Parenthood địa phương. Hai năm sau tôi trở thành Giám đốc điều hành của chi nhánh đó. Bảy năm sau, tôi trở thành Chủ tịch Liên đoàn Planned Parenthood Hoa Kỳ.
Gia đình tôi di cư đến đây từ Cực Nam nước Mỹ. Mẹ tôi ở Mississippi và cha tôi người Alabama. Họ là những người sống phúc âm theo kiểu cổ điển trong làn sóng di cư thứ hai lên miền Bắc vào cuối những năm 1930 đầu 1940. Cha tôi là người lao động thuần túy và mẹ là thợ may, nhưng họ có tính tự lập cao và sẵn sàng làm mọi việc cần thiết để kiếm sống. Chúng tôi phải tự lo liệu lấy mọi thứ. Điều này tạo cho tôi thói quen luôn có một lịch trình rõ ràng trong cuộc sống cũng như trong công việc. Dù vất vả, nhưng bọn trẻ chúng tôi phải được đến trường và phải vào đại học. Đó là quyết tâm vươn lên của gia đình chúng tôi.
Tôi chắc rằng ý nghĩ trở thành y tá được tô vẽ bằng những giới hạn trong quyền lợi của phụ nữ vào thời đó. Phụ nữ chỉ làm y tá, nhân viên công tác xã hội, hoặc giáo viên mà thôi. Tôi cũng không nhớ bao nhiêu lần mình được bảo một cách dứt khoát rằng: “Ồ, con không thể làm nghề đó được, vì con là con gái mà!”. Trước khi chu du vòng quanh nước Mỹ, chúng tôi sống trong một đại gia đình lớn ở St. Louis. Mẹ tôi và các dì rất độc lập, chồng họ đi làm còn họ ở nhà may vá kiếm sống. Tôi chưa bao giờ tin rằng có những giới hạn nào đó trong những việc tôi làm, nhưng ý nghĩ trở thành y tá thay vì làm bác sĩ hay một nghề nào khác là do những quan niệm khắt khe về vai trò của người phụ nữ trong giai đoạn đó.
Hình ảnh đầu tiên in sâu vào tâm trí tôi là hình ảnh của những người phụ nữ trong đại gia đình tôi và cả những người phụ nữ khác lấy việc may mặc làm nghề kiếm sống. Thời đó người ta rất chú ý đến các loại y phục đẹp mắt và đồ trang điểm phù hợp với các sự kiện khác nhau. Dù chúng tôi là dân lao động nhưng tôi được đi học trường y với con ông bác sĩ cạnh nhà. Đó là những năm trước khi phong trào đòi Quyền Bình đẳng cho người da đen phát triển mạnh mẽ (những năm 1960, đứng đầu là Mục sư M. Luther King - ND), trước khi người da đen dọn vào ở xen lẫn trong khu của người da trắng. Trải nghiệm đó cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong nhận thức của tôi về sắc tộc và triển vọng phát triển nghề nghiệp của tôi.
Vì nhà thờ là trung tâm đời sống xã hội của gia đình tôi nên ảnh hưởng của cộng đồng giáo dân lên gia đình tôi cũng rất mạnh. Từ sâu thẳm, quyết định của mẹ tôi về việc theo đuổi và cống hiến toàn thời gian phụng sự giáo hội đã trở thành tư tưởng chủ đạo chi phối cả gia đình chúng tôi.
Sự khác biệt giữa tôn giáo và tâm linh ngày càng được biểu hiện rõ ràng hơn khi con người đổ xô đi tìm những thứ mà họ không tìm thấy trong các thể chế tôn giáo chính thống. Tất cả chúng tôi đều cần có một thế lực vô hình nào đó phù trợ để cứu rỗi và an ủi chúng tôi. Trung tâm (ý nói Trung tâm vì Quyền Bình đẳng về Giới - ND) sắp đưa ra một cuộc trưng cầu ý kiến về các tổ chức tôn giáo, nhất là các tổ chức tôn giáo có khuynh hướng bảo thủ, và về thái độ của phụ nữ  đối với quyền bình đẳng cho nữ giới. Như một trong các vị thuộc Hội đồng Cố vấn Quốc gia từng lưu ý: “Phụ nữ luôn là những người trung thành với đức tin. Cuộc trưng cầu cho thấy phụ nữ thiên về tôn giáo và tâm linh, họ xem tôn giáo và tâm linh quan trọng hơn tất cả các mặt khác trong cuộc sống”. 
Khi tôi chứng kiến sự chống đối của những người có đầu óc tôn giáo chính thống ở Planned Parenthood, tôi không lấy làm lạ vì tôi đã từng lớn lên với nó. Mẹ tôi không phải là một tu sĩ Tân giáo mà là một tu sĩ Tin lành chính thống và bước đường thăng tiến của tôi cũng có liên quan đến điều này. Tôi hiểu rõ bằng trực giác của mình không những họ từ đâu đến mà còn hiểu được cả những nguy hiểm từ sự cuồng tín của họ. Mẹ tôi cũng cuồng tín như thế, bà từ bỏ mọi thứ, kể cả cha con tôi, để theo đuổi sự nghiệp rao giảng đức tin của bà. Một khi bạn nghe tiếng Chúa gọi thì không điều gì có thể cản nổi bạn. Tôi hiểu rõ điều đó hơn đa số những người khác ở Planned Parenthood. Tôi nhận ra rằng, sự kết hợp giữa đức tin và sự cuồng tín sẽ trở nên rất nguy hiểm. Tôi bắt đầu quan tâm hơn đến việc hạn chế những ảnh hưởng đang lên của các nhà tôn giáo chính thống cực đoan trong các vấn đề chính trị. Nhưng thật đáng buồn, tôi không thể thắng được họ.
Năm 1967, tôi lấy bằng thạc sĩ Sản-Nhi. Sau đó ba năm, tôi trở thành Phó giám đốc Hiệp hội Điều dưỡng viên Thỉnh giảng thành phố Dayton và các quận thuộc Montgomery. Cùng thời gian đó, tôi được mời vào Ban giám đốc Chi nhánh Planned Parenthood địa phương. Mọi người dần dần quen với cách điều hành công việc của tôi và đến năm 1970 tôi được đề cử vào chức Giám đốc Điều hành của họ. Vào thời đó, nếu bạn có bằng thạc sĩ thì hoặc bạn sẽ đi dạy, hoặc làm quản trị viên chứ không có nhiều phân ngành điều dưỡng như hiện nay. Dĩ nhiên khi chấp nhận hướng đi đó, tôi đã thành một quản trị viên.
Tôi nhận chức Chủ tịch Tổ chức Planned Parenthood Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 1978 cho tới tháng 3 năm 1992. Mười bốn năm quả là một thời gian dài nhưng đầy thú vị và chưa có ngày nào giống ngày nào. Giờ đây nghĩ lại tôi thấy mình nên rời chức vụ đó sớm hơn để tránh những mâu thuẫn nội bộ do tôi ngồi quá lâu trên chiếc ghế đó. Thật ra, vào năm thứ mười tôi đã thấy mệt mỏi nhưng chưa muốn ra đi vì dường như đâu đó vẫn còn những điều còn phải tranh đấu tiếp. Và, thật lòng mà nói, bên ngoài cũng không có nhiều phương án cho tôi lựa chọn. Đó là một trong những điều mà những người phụ nữ có địa vị cao, nhất là ở các tổ chức phi lợi nhuận, gặp phải. Nếu tôi là một người đàn ông đứng đầu một tổ chức nhân đạo lớn thứ bảy ở Mỹ, hoặc một công ty trị giá bốn trăm triệu đô la và thành đạt ở mức tôi thì tôi tin rằng người ta sẽ đặt vô số lời mời làm việc ngay dưới chân tôi để tôi tha hồ lựa chọn. Điều tôi quan tâm nhất vào lúc đó là khả năng tổ chức một chương trình truyền hình xuyên quốc gia xoay quanh các vấn đề có liên quan đến phụ nữ. Tôi cảm thấy nếu thực hiện được dự án này, phụ nữ sẽ có một diễn đàn rộng lớn hơn để tranh luận và đóng góp ý kiến về các vấn đề thiết thân của họ.
Tạp chí Business Week bình chọn tôi là một trong các nhà quản lý xuất sắc nhất trong lĩnh vực phi lợi nhuận, có lẽ vì họ cho rằng tôi điều hành một tổ chức rất quy củ. Tôi tin rằng tôi có khả năng ăn nói lưu loát và truyền đạt được tinh thần truyền giáo và tầm nhìn về tương lai. Người ta sẽ hưởng ứng nhiệt liệt khi nghe một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa nói rằng: “Đây là đường chúng ta đi, đây là nơi chúng ta sẽ đến”. Tôi không phải là một nhà lãnh đạo độc đoán, dù có người nói rằng tôi rất tự chủ. Thỉnh thoảng tôi phải thức liên tục bốn mươi tám giờ để điều hành mọi thứ cho trôi chảy trong một tổ chức như Planned Parenthood. Dĩ nhiên có những việc chính tôi phải gánh vác vì tầm quan trọng của chúng. Tuy vậy, phong cách lãnh đạo cơ bản của tôi vẫn là tổ chức một đội ngũ hỗ trợ điều hành, giao cho họ trách nhiệm rõ ràng, để họ tự do hành động và đánh giá họ qua kết quả công việc. Tôi vẫn dành cho họ sự ủng hộ khi họ phạm sai lầm, miễn là họ thực sự đang cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Tôi cũng là một lãnh đạo có tinh thần cầu thị. Tôi luôn cố tìm người giỏi nhất trong nhiều lĩnh vực chuyên môn để giúp tôi điều hành công việc một cách tốt nhất và tôi cũng có thể học hỏi họ. Kết hợp mọi thứ và làm cho nó chạy suôn sẻ như một cỗ máy hoàn chỉnh, theo tôi là một công việc đầy thử thách và thú vị. Ở một mức độ nào đó, tôi muốn mọi người ủng hộ tôi hết mình nhưng không muốn họ cứ luôn gật đầu đồng ý với tôi. Thực lòng mà nói, tôi đã tạo ra được một tập thể có tính đồng thuận cao so với các tổ chức phi lợi nhuận khác cho đến ngày tôi rời khỏi Planned Parenthood.
Tôi luôn cố gắng lắng nghe, nhất là trong các cuộc đối đầu về quan điểm. Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy mâu thuẫn trong tình cảm khó giải quyết hơn. Một điều tôi luôn tin tưởng là nếu có đủ thời gian nói chuyện với nhau thì hầu như bạn luôn tìm ra cách để giải quyết mâu thuẫn. Bất đồng chỉ có thể giải quyết thông qua thương lượng. Tôi có một niềm tin mãnh liệt là con người luôn có xu hướng thỏa hiệp với nhau nếu trước đó họ đã từng có một mối quan hệ khăng khít. Thay vì hò hét khẩu hiệu, tôi cố gắng nói sao cho hợp tình hợp lý, ngay cả đối với kẻ ngang bướng chỉ muốn phá rối. Tôi nghĩ ngay những người khó chịu nhất cũng phải công nhận rằng tôi là người biết chuyện. Rồi cũng có người cho rằng tôi quá nguyên tắc. Dù đối với với họ tôi là gì đi nữa, tôi cũng không quan tâm lắm. Tuy nhiên, điều thật sự có ý nghĩa nhất đối với tôi là: tôi là một người rất nguyên tắc trong khi giải quyết các mâu thuẫn.
Tôi luôn đau khổ vì sự hoài nghi chính mình. Tôi luôn tự hỏi liệu tôi đã làm đúng một công việc nào đó, trong một khoảnh khắc nào đó hay không, liệu tôi có thể làm việc đó tốt hơn thế không. Tôi lo lắng cho những công việc ở phía trước và không biết mình có sẵn sàng hay chưa. Tạo ra một tổ chức có phong cách mới khuấy động nhiều tình cảm như thế, nhưng đó chỉ là một trong những điều mà tôi sống chung từ lâu lắm rồi, chung sống để vươn lên. Ngay cả khi bạn sợ hãi và lo rằng bạn không thể làm nổi việc ấy, hãy nhớ rằng ngày mai trời lại sáng, nếu bạn luôn cố gắng, bạn sẽ có thêm nhiều nghị lực và quyết tâm trước khi bạn kịp nhận ra điều đó.
Khi rời Planned Parenthood, tôi thật sự mệt mỏi vì những mối bất hòa nội bộ, vì những chuyện vặt vãnh và những mưu toan phá hoại thành tựu của các tổ chức từ thiện quốc gia. Tổ chức này đã không bao giờ nổi bật hơn kể từ ngày Margaret Sanger sáng lập ra nó. Nó đã không thể đi xa hơn nữa. Tuy nhiên, khó khăn không ngừng chồng chất đối với tôi khi vừa làm việc vừa chịu đựng những hằn học trong nội bộ mà tôi đã đề cập. Quá nhiều nỗi u uất trong lòng khi bạn theo đuổi một sự nghiệp như thế. Đoạn kết trong sự nghiệp của tôi là ở một hội nghị tổng kết hoạt động vào đầu năm 1992. Các chi nhánh bỏ phiếu tán thành giảm bớt sự ủng hộ của họ cho tổ chức quốc gia này. Tôi cảm thấy điều đó thật sỉ nhục và không thấy có lý do nào khác để tiếp tục.
Tôi rời Planned Parenthood để thực hiện một chương trình truyền hình liên tiểu bang với Công ty Giải trí Tribune, nhưng rồi nó bất thành. Chương trình chúng tôi đề cập trước khi tôi rời Planned Parenthood không phải là chương trình họ sẵn lòng thực hiện. Họ muốn tôi làm chương trình theo kiểu Jerry Springer (kiểu rẻ tiền - mì ăn liền) mà chúng tôi lại không đủ can đảm dàn dựng. Chỉ mới thử nghiệm một số cảnh thôi tôi đã cảm thấy chán muốn khóc khi nghe diễn viên kể lể hàng giờ rằng họ đã không được ái ân cả nửa năm rồi – và những chuyện đại loại như thế. Ngay cả trước khi diễn thử lần đầu tiên tôi đã biết là chương trình sẽ chẳng đi tới đâu. Sau đó họ tổ chức một cuộc họp với giám đốc các đài truyền hình, những người hình như không ủng hộ chương trình đó và nghi ngờ rằng có lẽ tôi quá thông minh đối với khán giả chương trình buổi sáng của họ. Họ cảm thấy tôi phù hợp với khán giả của chương trình buổi chiều hơn và muốn tôi làm cho các chương trình của họ được xếp hạng cao. Một vị hỏi: “Bà có sẵn lòng làm người phụ nữ “gợi cảm” trong một vài tuần không?”. Tôi bảo “Không!”.
Tối đó tôi về nhà và bảo con gái rằng chương trình đó sẽ không diễn ra. Và thực sự nó đã không xảy ra. Tribune đã cố tình lừa dối tôi. Lúc đó tôi cũng đang có hợp đồng viết sách nên cần phải tập trung vào đó. Và quan trọng hơn, tôi cần phải ổn định lại cuộc sống của tôi vì trước đó tôi nghĩ rằng tôi sẽ theo đuổi các chương trình truyền hình vì phụ nữ cho đến cuối đời. Tôi cũng cần phải kiếm sống để có thể theo đuổi một mục đích nào đó trong đời. Tôi nhận ra điểm mạnh của tôi là khả năng giao tiếp với khán giả và nếu tôi có thể lên truyền hình, tôi tin rằng tôi sẽ thành công. Bạn chỉ cần vài năm trong ngành truyền hình là có cuộc sống thoải mái về mặt tài chính. Tôi hình dung sau khi chương trình kết thúc tôi sẽ viết sách và thực hiện các sứ mạng quốc tế mà tôi thích. Giá như tôi có sự hỗ trợ về tài chính để tôi tha hồ vùng vẫy và tự do thực hiện các dự án mà tôi từng ấp ủ.
Điều đó không xảy ra vì con gái tôi sắp vào đại học và sự chọn lựa của tôi cũng có giới hạn. Tôi đã hoàn thành cuốn sách và đó là một trong những mục tiêu chính của đời tôi. Rồi tôi cũng có nhiều cơ hội cộng tác với các công ty tư vấn quản lý. Tôi bắt đầu liên lạc với bạn bè và các đồng nghiệp cũ qua mạng và gợi ý một sự quan tâm đến việc hợp tác trách nhiệm. Đó là cả một thách thức đối với tôi. Tôi luôn bị thương tổn với ý niệm rằng thành công trong lĩnh vực phi lợi nhuận khác xa với thành công trong kinh doanh vì lợi nhuận. Có ai nhìn thấy tài năng và giá trị thực của tôi trong một tổ chức hoạt động vì mục đích lợi nhuận? Tôi không thích cuộc sống tri thức của tôi được định nghĩa chỉ qua một công việc nào đó. Tôi muốn đương đầu với các thử thách đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm để giải quyết. Tôi đã không lường trước được sự khó khăn khi phải tự mình bươn chải với bốn, năm khách hàng trong tay. Thật sự đó là một công việc khó hơn những gì tôi thường làm ở Planned Parenthood.
Mở một Trung tâm (Trung tâm vì Quyền Bình đẳng về Giới tính) thực sự là một thử thách lớn. Chúng tôi muốn tạo ra một cái gì đó độc nhất vô nhị. Thật không dễ để mọi người hiểu được rằng tại sao nó quan trọng, làm thế nào để nó có thể tạo ra một sự khác biệt, hay nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các chiều dư luận về vai trò của phụ nữ. Nhưng chúng tôi hiểu. Điều hành một tổ chức lớn khác với điều hành một tổ chức mới thành lập. Điều hành một tổ chức danh tiếng và có truyền thống khác với điều hành một tổ chức chưa có tên tuổi. Thuyết phục mọi người đầu tư ý tưởng và nghiên cứu tạo ra sự thay đổi thật khó khăn. Tôi không nghi ngờ rằng thành lập trung tâm là đúng, nhưng liệu tôi có thể đi đến thành công hay không? Không ai có thể thành công một mình mà họ cần rất nhiều sự ủng hộ của những người xung quanh.
Ba năm cuối cùng tại Planned Parenthood tôi cảm thấy rất đơn độc, dù tôi có một cấp phó xuất sắc, một người hết lòng ủng hộ tôi. Suy cho cùng, ông ấy không phải là người phải gánh chịu trách nhiệm và căng thẳng vì các cuộc biểu tình, bạo động và những hiểm họa đe dọa đến tính mạng. Người ngồi cao nhất phải nhận lãnh tất cả. Đó thực sự là một chiếc ghế rất biệt lập. Trừ phi bạn ngồi vào chiếc ghế đó và đi đúng đôi giày đó, bạn mới có thể đánh giá đầy đủ toàn bộ cái giá mà bạn phải trả, nhất là về mặt tình cảm, khi bạn thuộc típ người không thích làm to chuyện.
Mọi dấu hiệu đều rất đáng buồn và chúng chỉ ra rằng phụ nữ đang tụt hậu. Khoảng cách tiền lương ngày càng cách biệt hơn. Phụ nữ vẫn luôn ở vị trí thiểu số trong mọi lĩnh vực nghề nghiệp tuy họ đã có nhiều tiến bộ rõ nét. Sự tiếp cận của chúng ta trong các dịch vụ y tế vẫn còn rất bất bình đẳng. Phụ nữ được xếp ngang hàng với nam giới về bằng cấp nhưng lương bổng thì không có sự công bằng đó. Trong các viện hàn lâm, con số các vị nữ giáo sư được bổ nhiệm lại càng ít hơn nữa. Phụ nữ chỉ chiếm khoảng năm phần trăm trên tổng số các nhà quản lý cao cấp. Trong Top Fortune 500, bạn chỉ có thể đếm được các nữ tổng giám đốc điều hành trên đầu ngón tay, trong khi chị em chúng ta chiếm đến năm mươi hai phần trăm dân số thế giới. Cuối cùng, tôi muốn nói đến quyền sinh sản của phụ nữ, như chúng ta đã biết, vào những năm 1970 nó đã bị tước bỏ hầu hết phần cốt lõi. Hành động phá thai khi thai ở giai đoạn cuối bị lên án. Chúng ta có thể phải dính líu với pháp luật vì giúp bọn trẻ phá thai là một tội ác, trừ trường hợp được phép của cha mẹ chúng hay tòa án.
Tôi thấy đâu đó, thái độ tự mãn đang tồn tại. Các cô gái trẻ đang sống trong một thế giới hào nhoáng đầy rẫy những lựa chọn hấp dẫn. Phụ nữ đang ngày càng tiến bộ và thực tế đó làm họ ngộ nhận rằng mọi việc đang rất tốt đẹp.
Quyền lực thật sự không nằm ở cấp quản lý bậc trung - nơi có nhiều phụ nữ thành đạt - mà nó vẫn nằm ở các căn phòng thâm u bí hiểm của các tập đoàn tư bản khổng lồ và các cấp lãnh đạo quốc gia. Đó là nơi các quyết định tối hậu được đưa ra. Chỉ khi nào phụ nữ có được tiếng nói ngang bằng ở những nơi đó thì mới có được một sự công bằng thực sự. Chính vì thế, vẫn còn muôn vàn khó khăn đang chờ đợi chúng ta ở phía trước.
Kết luận
Rõ ràng thời thơ ấu ảnh hưởng rất lớn đến tính cách và sự nghiệp của những người tôi từng phỏng vấn, dù đó là việc học hỏi các kỹ năng trồng trọt như trường hợp Don Kendall, hoặc sống hòa hợp trong một gia đình dễ thay đổi như Jack Kornfield, hay phát triển một ý chí đấu tranh, một tinh thần trách nhiệm và lòng kiên cường  như  Faye Wattleton.
Mặc dù được đào tạo thành một y tá nhưng Faye chưa bao giờ sử dụng trực tiếp nghề nghiệp của bà vào lĩnh vực này. Thay vào đó, bà nuôi dưỡng tinh thần làm việc cho người khác bằng công việc của bà trong một tổ chức phi lợi nhuận. Điều bà đã mang lại cho Planned Parenthood là một tiếng nói hợp tình hợp lý trong mọi tình huống và lối tiếp cận vấn đề mang tính nguyên tắc thông qua quá trình lãnh đạo của bà. Bà quản lý nhân viên bằng cách đặt vào họ những kỳ vọng rất cụ thể và để họ tự do hành động. Sau đó bà đánh giá họ dựa trên kết quả công việc của họ. Faye tin tưởng mạnh mẽ rằng kỹ năng giao tiếp hiệu quả góp phần tạo ra sự an tâm và tin tưởng trong đội ngũ nhân viên của mình.
Nhìn nhận về sự thành đạt, Faye xác nhận rằng tầm nhìn xa, lòng tin, sự thành thật, tinh thần làm việc tập thể, tính chân thực và biết lắng nghe là chìa khóa của thành công. Bà khuyên chúng ta không nên ngại va chạm hay mâu thuẫn mà hãy kêu gọi mọi người cùng đối thoại để giải quyết vấn đề. Cũng như Robert Mondavi, Faye tin rằng nếu ai cũng diễn đạt đúng ý nghĩ và cảm nhận của mình và thật lòng lắng nghe người khác thì mọi xung đột đều có thể được giải quyết một cách tốt đẹp.
Câu chuyện về cuộc đời Faye là một minh họa đích thực cho các thách thức mà nhiều người ngày nay đang phải đương đầu khi tự làm lại cuộc đời. Thật thú vị khi nghe bà kể về những nỗ lực của mình trong việc đè nén sự thất vọng khi chương trình truyền hình mà bà hằng ấp ủ bị thất bại. Dù bước vào Planned Parenthood, tổ chức thiện nguyện lớn thứ bảy của Mỹ thời điểm đó, trong vinh quang và chia tay nó trong ray rứt, Faye Wattleton vẫn không nản chí. Bà vẫn bền bỉ đấu tranh vì sự bình đẳng và tiến bộ không chỉ của phụ nữ Mỹ mà của tất cả phụ nữ trên thế giới. Bà tham gia vào ban giám đốc các công ty, viết tự truyện và nhất là thành lập Trung tâm vì Quyền Bình đẳng Giới tính. Hiện thời Faye vẫn đơn độc trong chức vụ lãnh đạo ở tổ chức của bà nhưng bà quan niệm rất rõ ràng rằng: kinh doanh là động lực để bà tiếp tục giúp đỡ phụ nữ giành lấy quyền bình đẳng cho mình.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

P12: Vì Sao Họ Thành Công - Tập 1

Faith Popcorn - Nhà tương lai học

Faith Popcorn là một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực dự báo các xu hướng xã hội. Bà là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Faith Popcorn Brain Reserve, một công ty tư vấn tiếp thị được bà sáng lập năm 1974. Bà có hai quyển sách viết về các xu hướng tương lai thuộc hàng best-selling: “The Popcorn Report” và “Clicking”.
Bà cung cấp dịch vụ tư vấn cho nhiều công ty thông qua việc tiên đoán các nhu cầu tương lai của khách hàng và hành vi của họ. Bà nhận dạng các thói quen xã hội như tính ky bo cũng như hành vi tiêu xài bạt mạng, tư duy phụ nữ, sự trả thù ngọt ngào và dự đoán cả sự ra đời của thương mại điện tử và hoạt động mua sắm trực tuyến. Những dự đoán của bà được đánh giá là đúng đến chín mươi lăm phần trăm. Faith đã tốt nghiệp Đại học New York và Trường Biểu diễn Nghệ thuật.
Faith hơi gầy nhưng rất dẻo dai, sôi nổi, tác phong nhanh nhẹn đầy sức sống. Lần đầu tiên tôi gặp bà tại nhà em gái tôi ở Manhattan. Lần đó có cả con gái tôi, Annabel. Faith và Annabel cách nhau cả một thế hệ nhưng cả hai rất tâm đầu ý hợp trong lĩnh vực làm đẹp và các xu hướng thời trang hiện đại. Faith là người quan tâm đến mọi người và mọi thứ. Bà làm quen với mọi người rất dễ dàng, và tôi cho rằng đó cũng là một lý do khiến bà thành công như ngày nay.
Tôi phỏng vấn bà tại trụ sở chính của Brain Reserve nằm ở khu Thượng Đông Manhattan thành phố New York. Nhìn bên ngoài tòa nhà trông như mọi ngôi nhà lân cận khác nhưng khi bước vào bên trong, bạn sẽ lập tức nhận ra sự khác biệt. Toàn bộ nhân viên của bà đều mặc com-plê đen, cả cô con gái yêu của bà cũng vậy, và hầu hết đều dưới ba mươi tuổi. Bầu không khí làm việc rất sinh động và hối hả. Rõ ràng là họ không có sự phân biệt về cấp bậc trên dưới vì trông họ rất bình đẳng với nhau. Tôi không nhìn thấy một căn phòng trang nghiêm bí hiểm nào (loại văn phòng dành cho các vị lãnh đạo cao cấp) trong tòa nhà của họ.
Faith rất chuyên nghiệp và dễ phỏng vấn vì những gì bà bán cho khắp thế giới là sản phẩm của chính bản thân bà. Bà sáng tạo ra và tự tiếp thị chính mình như một biểu tượng của tương lai. Như một nghệ sĩ dày dạn kinh nghiệm, bà trình diễn cuộc đời bà trong sự khoáng đạt, khởi xướng các sáng kiến một cách rõ ràng, chính xác và luôn có những cảm nhận tinh tế trước mọi biểu hiện của người đối diện. Faith là một phụ nữ có khả năng truyền cảm hứng, một doanh nhân và là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

Óc Quan sát tinh tế và sự nhạy bén về văn hóa
“Phụ nữ điều hành công ty bằng cách cho mỗi nhân viên của họ một lá phiếu. Mọi người đều có quyền bày tỏ ý kiến. Bạn không thể khiến mọi người làm tốt bất cứ việc gì nếu họ chưa thông tỏ về nó.”  
- Faith Popcorn

Tôi thành lập Faith Popcorn Brain Reserve vào năm 1974. Chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn cho các công ty thuộc câu lạc bộ Fortune 500 (Nhóm 500 công ty hàng đầu Hoa Kỳ).
Thường thì cấp Hội đồng quản trị và cấp giám đốc hay thuê chúng tôi đưa ra những dự báo trước vài thập niên và giúp họ nghĩ ra các sản phẩm hoặc chiến lược kinh doanh đón đầu tương lai.
Họ quá bận rộn với việc điều hành công việc trong hiện tại và những gì còn chưa hoàn thành của quá khứ mà không có thì giờ nhìn về tương lai, cho nên chúng tôi giúp họ bằng những dự báo như thế. Chúng tôi dự báo chính xác đến chín mươi lăm phần trăm các trào lưu xã hội, xu hướng tương lai và tất cả đều được ghi lại trong sách vở bằng những phương pháp khoa học nhất. Nói ngắn gọn, chúng tôi tiến hành khảo sát, điều tra, nghiên cứu tất cả các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động của khách hàng của chúng tôi nhằm đưa ra một câu trả lời duy nhất cho họ, đại loại như, “Quý vị đừng làm cái này, hãy theo cái kia đi”, hoặc “Hãy làm theo công thức này đi”.
EVEolution - The Eight Truths of Marketing to Women (tạm dịch: EVEolution - Tám Chân lý Tiếp thị với Khách hàng nữ), cuốn sách do Lys Marigold và tôi là đồng tác giả, là cuốn hay nhất mà tôi đã từng viết (Lys cũng đồng ý như thế).  Nó bàn về sự khác nhau trong cách nhìn nhận vấn đề giữa đàn ông với phụ nữ và đưa ra những phương cách tiếp thị khác nhau dành cho từng giới. Phụ nữ thường mua đến tám mươi phần trăm lượng hàng tiêu dùng trên thế giới nên họ là một thị trường rất lớn. Tuy nhiên, EVEolution là một cuốn sách khó đọc. Nó miêu tả một phương thức tiếp thị mới thông qua tám điển hình lịch sử của các công ty mà chúng tôi đã có dịp tư vấn, từ GE Capital (Công ty tài chính thuộc Hãng sản xuất điện tử General Electric) cho đến Jiffy Lube.
Chúng tôi nổi tiếng với xu hướng “cocooning” (tạm dịch: đóng kén), một xu hướng mua sắm tại gia. Ít ai biết được rằng tên gọi này do chúng tôi tự đặt từ năm 1981, khi mọi người vẫn còn say sưa trong ma túy, tình dục và nhạc rock 'n' roll. Chúng tôi thường “đi trước thời đại” như thế. Chẳng hạn, chúng tôi tư vấn cho một nhà hàng thức ăn nhanh thế này: “Quý vị có biết rằng giao hàng tận nhà sẽ quan trọng như thế nào trong thời gian tới không? Quý vị đã định dạng lại sản phẩm và cung cách phục vụ của mình để nắm thế thượng phong ngay từ bây giờ chưa?”. Về phía khách hàng, đầu tiên họ xét xem tương lai đó là gì và người tiêu dùng đúng là có nhu cầu đó hay không. Sau đó, họ sẽ định dạng lại sản phẩm và dịch vụ của họ, ngay cả khi phải thay đổi một vài thứ cho phù hợp.
Ý nghĩ thành lập Faith Popcorn's Brain Reserve chợt đến khi tôi đang làm giám đốc ý tưởng (copywriter) và sáng tạo (creative) cho một hãng quảng cáo và bị cho thôi việc vì "đi trên mây". Thậm chí tôi còn lập một công ty quảng cáo nhỏ cho riêng mình. Tôi để ý thấy rằng những điều tôi tiên đoán sau đó đều trở thành hiện thực cả. Ví dụ, tôi nói: “Các món ăn theo kiểu người da đỏ sắp thịnh hành đấy. Món Mexico cũng vậy”. Và sự việc diễn ra đúng như vậy thật. Vâng, tôi có thể nói cho bạn biết loại xe nào sẽ bán chạy sắp tới. Tôi nhận ra rằng tôi đã sử dụng các phương pháp suy luận khoa học một cách rất vô thức. Tôi có hàng ngàn người bạn chỉ để trò chuyện và động não với họ nhằm chắt lọc thông tin. Đó là một Ngân hàng ý tưởng với 7.500 bộ não chuyên gia của chúng tôi. Mỗi năm, chúng tôi cũng trò chuyện với khoảng 4.000 người tiêu dùng trên mười sáu lĩnh vực trong suốt hai mươi năm qua. Tôi đọc khoảng 500 tạp chí và bản tin mỗi tháng bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Nhật và tiếng Hoa, và tôi gọi đó là Ngân hàng kiến thức của chúng tôi.
Tôi là người có thể cảm nhận được những gì người khác không thể cảm nhận. Mười năm trước đây, tôi đoán rằng phụ nữ sẵn sàng từ bỏ công việc để có con và sẽ mở công ty riêng. Ngày nay, rất nhiều phụ nữ sở hữu và điều hành công ty của riêng mình với tổng số nhân viên lớn hơn toàn bộ nhân viên của các công ty thuộc Fortune 500 gộp lại. Lần khác, tôi bảo giám đốc một hãng hàng không rằng: “Ông biết chưa, tiếp viên hãng ông sắp đình công đấy”. Ông ấy bảo: “Bà nói gì thế? Chúng tôi vẫn xuôi chèo mát mái với nhau mà!”. Hai tuần sau, họ đình công.
Cha mẹ tôi đều là luật sư, nhưng mẹ tôi là một luật sư rất lơ đễnh, còn cha tôi là một luật sư hình sự làm việc cho Cục Điều tra Tội phạm của quân đội Mỹ ở Thượng Hải. Tôi có một em gái nhỏ hơn tôi bảy tuổi. Hồi nhỏ tôi sống ở Thượng Hải nên bị lôi cuốn bởi sự huyền bí của nền văn hóa Trung Hoa. Có lẽ đó là lý do sau này tôi nhận một đứa con nuôi người Hoa. Vì muốn trở thành thám tử tư nên tôi thường theo dõi một số người trên đường phố, nhưng chỉ theo dõi cho vui vậy thôi. Tôi nghĩ thật thú vị khi nghe ai đó bảo rằng họ sắp sửa làm gì rồi thật sự họ đã làm gì. Kinh doanh cũng thế - bạn phải biết người ta nói, nghĩ, và làm như thế nào trong tương lai. Tôi tập hợp tất cả các dữ liệu thu thập được và phân tích, phán đoán xem họ đang nghĩ gì và sẽ làm gì. Tôi cũng là một con mọt sách. Tôi đọc ba mươi quyển sách mỗi tuần về mọi chủ đề: thời trang, điện tử, thực phẩm, thể thao… Có lẽ sự nhạy bén về văn hóa và óc quan sát tinh tế là chìa khóa cho sự thành công của tôi.
Phụ nữ có khả năng đọc được suy nghĩ của người đối diện rất tốt và khả năng này đã giúp họ trở thành những người bán hàng giỏi. Vâng, chúng tôi cảm nhận sự việc bằng tất cả các giác quan của mình.
Nhưng tôi cũng cảm thấy rất phiền phức khi lúc nào, đi đến đâu trong đầu tôi cũng lởn vởn những câu hỏi như: “Điều đó có ý nghĩa gì?”, “Họ đang nghĩ gì thế?”. Giống như một cặp tình nhân nói rằng họ đang rất hạnh phúc, nhưng trên thực tế bạn thấy họ không phải như vậy. Từ nhỏ tôi đã thực hành điều đó: quan sát và nhận xét. Tôi được mệnh danh là một bà cụ non.
Cha mẹ tôi không chấp nhận việc trẻ con đi làm thêm kiếm tiền. Đã có lúc tôi muốn làm nghệ sĩ nên tôi vào trường nghệ thuật sân khấu ở New York để học diễn xuất. Sau khi tốt nghiệp, lẽ ra tôi phải vào trường luật học tiếp nhưng tôi không đi. Cha tôi mất trong một tai nạn xe hơi khi tôi mười chín tuổi. Đó là một bước ngoặt lớn trong đời tôi. Nếu ông còn sống chắc tôi sẽ là một luật sư, vì tôi rất ngưỡng mộ cha. Bạn trai tôi làm ở ngành quảng cáo nên tôi có học qua một khóa về quảng cáo và cũng khá tinh thông về nó. Tôi rất mạnh về kỹ năng viết, rất ngắn gọn và rất súc tích - nên được đề nghị một vị trí trong một hãng quảng cáo. Tôi nhận lời nhưng thật lòng mà nói, tôi chưa bao giờ muốn làm việc trong ngành quảng cáo. Tôi không muốn bị ép phải nói hươu nói vượn để thỏa mãn cái tôi của khách hàng.
Năm 1968, trước khi mở công ty riêng, tôi đổi tên thành Popcorn, vốn là biệt danh do sếp tôi đọc trại cái tên “Plotkin” của tôi mà thành. Đó quả thật là một ý tưởng rất hay vì “Bắp Nổ” (popcorn – bắp nổ) đúng là một cái tên khó ai có thể quên được. Giờ đây cái tên đó đã nằm trên hộ chiếu của tôi và theo tôi đi khắp cùng trời cuối đất.
Khi khởi nghiệp, tôi không có tiền và cũng chẳng làm ra đồng nào trong mười năm ròng. Công ty tôi chỉ có Stuart Pittman, cộng sự của tôi, và một thư ký. Stuart là đồng nghiệp thân của tôi từ hồi còn làm ở hãng quảng cáo. Nhưng sau khi chung vốn với tôi, Stuart muốn lái công ty theo hướng quảng cáo, trong khi tôi lại muốn làm tư vấn nên chúng tôi đành chia tay. Phải mất một thời gian dài tôi mới gầy dựng được tiếng tăm cho công ty và bắt đầu có chút lợi nhuận. Tôi chỉ biết công ty sắp ăn nên làm ra và sẵn sàng bỏ thêm năm mươi năm nữa để nuôi dưỡng nó nếu cần thiết. Tôi biết mọi công ty đều phải hướng đến tương lai và vì thế, họ sẽ phải cần đến công việc của tôi. Điều đó đã và đang diễn ra đúng như thế.
Một trong các khách hàng thuở ban đầu của chúng tôi là Campbell's Soups. Họ thật sự hiểu công việc mà tôi đang làm. Hồi đó, công việc của tôi chưa có tên nên theo lời khuyên của họ, tôi đặt nó là Trends và sau này nó tỏ ra thật thích hợp. “Trends” đơn giản chỉ nghiên cứu các khuynh hướng tiêu dùng trong tương lai. Đối với Công ty Campbell, tôi nhận ra rằng những cái lon thiếc đựng xúp sắp hết thời và đề nghị họ nghĩ đến việc sử dụng hộp nhựa hay giấy để thay thế. Họ thất vọng và lấy làm phiền lòng trước đề nghị “khiếm nhã” của chúng tôi. Mười năm sau, hộp nhựa và lon giấy được sử dụng khắp mọi nơi, nhưng họ không phải là người đầu tiên sử dụng chúng. Chúng tôi cũng từng khuyến cáo xu hướng Food-for-One (tạm dịch: Khẩu phần cho một người) vì chúng tôi dự đoán phụ nữ sẽ chọn lối sống độc thân nhiều hơn, nhưng họ cũng không nghe dù chúng tôi chứng minh bằng những con số thống kê nhân khẩu học có độ tin cậy cao. Ngày nay thực tế diễn ra đúng như vậy.
Số phụ nữ mở công ty riêng ngày nay nhiều gấp hai lần so với nam giới và họ sẽ trở thành một lực lượng hùng hậu trong thập niên tới. Phụ nữ điều hành công ty bằng cách trao cho mỗi nhân viên của họ một lá phiếu. Đối với họ, mọi người đều có quyền bày tỏ ý kiến. Bạn không thể khiến mọi người làm tốt bất cứ việc gì nếu họ chưa thông tỏ về nó. Phụ nữ chúng tôi kể cũng vui. Tôi không tuyển những người chỉ biết nói “không” hoặc “không thể” vì họ không có cái mà tôi gọi là nhiệt huyết. Tôi thích nhìn cảnh tượng khách hàng bước vào và thấy có một sự ngăn nắp gọn gàng trong công ty. Điều đó có sự đóng góp rất lớn của những bộ đồng phục. IBM hầu như là nhà phát minh đầu tiên của những bộ đồng phục công sở. Tôi rất thích nhìn các chàng trai của họ trong bộ com-plê xanh và những chiếc cra-vát giống hệt nhau. Trông họ thật chuyên nghiệp và tuyệt vời.
Tôi cũng là người hay bốc đồng. Chẳng hạn, hơn bốn năm về trước, khi cùng một người môi giới bất động sản đi mua một căn hộ có hai phòng ngủ, chúng tôi đi ngang ngôi nhà này. Tôi bảo: “Trời ơi, nếu tôi nhìn thấy một căn nhà như thế, tôi sẽ mua ngay”. Cô ấy nói: “À, căn nhà này đang bị kê biên tài sản”. Không có dấu hiệu gì cho biết điều đó - chẳng có bảng rao bán hay thông báo kê biên gì cả. Đúng là tôi có một bản năng đoán trước mọi việc. Thế là máu bốc đồng nổi lên, óc phán đoán hoạt động và tôi hình dung nếu mình chuyển hết công ty về đây thì sẽ rất có lợi về kinh tế. Thế là chúng tôi dự đấu giá, mua được nó và phát triển công ty ở đây.
Nếu làm luật sư, có lẽ tôi xếp hạng chót trong số các luật sư bét nhất. Thú thật, tôi cảm thấy rất tồi tệ khi la mắng người khác hoặc nói sai điều gì đó. Và tôi cũng không bao giờ trở thành một luật sư giàu có được, vì có quá nhiều sự bất công trên đời này có thể được mua bằng tiền, mà tôi thì không thể ngửa tay nhận những đồng tiền đó được. Tôi không ngưỡng mộ người giàu có vì phía sau gia tài của họ thường là một tội ác. Những người như Eleanor Roosevelt mới là thần tượng của tôi. Tôi rất ái mộ bà. Con gái tôi cũng là một thần tượng đang lên của tôi.
Đối với tôi, thành công là tạo dựng cơ nghiệp và làm cho nó phát đạt. Nó không chỉ đơn thuần là kinh doanh, là sự cần mẫn, mà còn là cả cuộc đời tôi. Sẽ không có ngành kinh doanh “Trends” (Tư vấn về các xu hướng xã hội) nếu không có chúng tôi. Tôi rất tự hào nói rằng tôi là người đã khai sinh ra ngành này. Đại học Harvard từng mời tôi dạy một khóa về đánh giá mức độ tập trung qua gương mặt của các sinh viên. Tôi muốn để lại một di sản cho thế hệ sau. Tôi muốn nó sẽ trở thành một nghề nghiêm túc. Làm được điều đó mới thực sự là một thành công đối với tôi.
Một khía cạnh khác của thành công nằm ở vai trò làm mẹ của người phụ nữ. Tôi hy vọng mình là một bà mẹ tốt. Ngoài điều đó ra, tôi không còn hạnh phúc nào lớn hơn.
Rất nhiều bạn bè tôi nghiên cứu về phép thiền định của Phật giáo. Đó là điều tốt. Đó là một xu hướng mà tôi gọi là Tìm nơi nương tựa. Tôi cần nhiều những thứ như thế trong đời. Nếu tôi chết ngay bây giờ, liệu mọi việc có ổn không? Tôi không biết, có thể ổn, cũng có thể không. Nhưng điều họ muốn hướng đến là sự bình an trong tâm hồn - cái mà tôi chưa có.
Tôi sẽ khuyên lớp trẻ đang khởi nghiệp hôm nay rằng nếu muốn trở thành doanh nhân, hãy tìm một cộng sự có thể làm những việc mà bạn không thể làm tốt được. Ngoài ra, bạn phải thật sự có một ý tưởng rõ ràng về các mục tiêu của bạn và vận dụng những biện pháp tốt nhất sẵn có để thực hiện và theo đuổi tới cùng. Một việc khác mà tôi đã làm là gặp gỡ những người giỏi để học hỏi từ họ. Dale Carnegie cũng làm thế. Tôi thích ông và thích cả quyển Think and grow rich (Nghĩ và làm giàu) của ông. Đó là một cuốn sách hay nhất mà tôi từng đọc. Khởi đầu sự nghiệp, Dale Carnegie viết về 100 nhân vật mà ông ngưỡng mộ, như Thomas Edison chẳng hạn, và xin nói chuyện với họ. Tôi khuyên các bạn trẻ hãy mạnh dạn tìm hiểu thần tượng của mình. Khi các em nhỏ viết thư hay gửi e-mail xin gặp tôi, tôi đều dành thời gian tiếp chuyện và hướng dẫn các em tham quan văn phòng của chúng tôi. Tôi không thích được gọi là cố vấn vì nó làm tôi có cảm giác mình đã già. Nhưng nếu ai đó hỏi tôi rằng: “Tôi có thể nói chuyện với bà về những việc tôi định làm và kế hoạch kinh doanh của tôi không?”, tôi sẽ nói ngay: “Vâng, tất nhiên rồi, hãy nói tôi nghe nào!”. Vì thế, hãy đến gặp những người mà bạn ngưỡng mộ và hỏi họ: “Làm thế nào ông/bà được như ngày nay? Ông/bà có thể cho tôi một lời khuyên không?”. Điều đó rất có ích và có thể tạo ra một hướng đi mới cho bạn.
Kết luận
Faith Popcorn không có ý định bắt đầu sự nghiệp bằng nghề dự đoán các xu hướng xã hội. Bà bắt đầu từ ngành quảng cáo và khám phá ra rằng bà có khả năng tiên đoán công chúng muốn gì trong tương lai và đặt tên cho các xu hướng đó. Faith cũng từng muốn làm thám tử tư cũng như làm luật sư cho đến khi cái chết của người cha đã làm bà thay đổi quyết định. Faith định nghĩa thành công là làm cho công việc kinh doanh của mình trở nên thịnh vượng. Bà rất say mê công việc, toàn tâm cống hiến cho công ty của mình, và bà cũng muốn các nhân viên của mình như thế. Bà khuyên lớp trẻ nếu muốn trở thành doanh nhân thành đạt trước hết hãy lập kế hoạch kinh doanh rõ ràng, tìm các cộng sự có những kỹ năng bổ khuyết cho mình, và gặp gỡ những người tài giỏi để học hỏi. Song song đó, hãy rèn luyện kỹ năng giao tiếp hiệu quả và hãy mạnh dạn đặt câu hỏi mọi lúc, mọi nơi, và với mọi người.
Những lời tâm sự của Faith thể hiện chính xác con người và hình ảnh của bà trước công chúng: rạng rỡ, sống động, và đầy tự tin. Tôi tin rằng các bạn sẽ học hỏi được nhiều điều qua cuộc phỏng vấn mà bà dành cho tôi.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

John Sculley - Nguyên TGĐ điều hành Tập đoàn Apple

John Sculley được đề bạt chức Tổng giám đốc điều hành Tập đoàn Apple vào năm 1983 khi doanh số của Apple chỉ đạt 600 triệu đô la một năm. Dưới quyền điều hành của ông, doanh thu của Apple tăng đến 8 tỉ đô la và Apple đã từng nhận được giải thưởng xuất sắc nhất về quảng cáo trên truyền hình và sách báo.
Sculley nổi tiếng nhờ việc phát triển thương hiệu Apple vào công nghệ máy vi tính cá nhân. Nhiều nhãn hiệu lớn đã được tạo ra trong nhiệm kỳ của ông như: Macintosh, Apple Desktop Publishing và máy tính xách tay Apple PowerBook. Tạp chí Advertising Age và Adweek đều bình chọn ông là Nhà Quảng cáo Xuất sắc nhất của năm và Bản tin điện tử Tài chính bầu John Sculley là Tổng giám đốc điều hành giỏi nhất trong mười năm đầu của Kỷ nguyên Tiếp thị (tức vào khoảng cuối thập niên 80, đầu thập niên 90).
Sculley đến Apple từ Tập đoàn Pepsi, nơi ông có năm năm làm Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc điều hành và mười sáu năm làm quản lý và tiếp thị. Ông là người đã từng đưa Pepsi qua mặt Coca Cola để giữ vị trí dẫn đầu trong thị trường nước giải khát tại Mỹ, theo đánh giá của AC Nielsen, một công ty chuyên nghiên cứu về thị trường nổi tiếng trên thế giới. Hiện nay ông đang làm việc cho công ty tư vấn và cho thuê tài chính do ông hùn vốn với hai người anh trai Athur và David.
Tôi gặp John lần đầu vào những năm đầu của thập niên 1980. Lúc đó ông nhận được nhiều mối quan tâm của công chúng về Apple và tôi nghĩ rằng ông rất tự mãn và kiêu ngạo. Nhưng tôi đã lầm. Ông rất khiêm tốn, thông minh, sâu sắc, sẵn sàng lắng nghe và không hề cao ngạo. John cuốn hút mọi người bởi vóc dáng cao lớn, cân đối, nhanh nhẹn, mái tóc hoe đỏ và một cá tính mạnh mẽ. Dường như ông cố ý ăn mặc không đúng cách như muốn nói rằng ông không chú ý nhiều đến vẻ bề ngoài của mình. Và cũng vì thế mà ông rất quyến rũ. Tôi từng giới thiệu ông với nhiều người và ai cũng có ấn tượng tốt về ông. Một trong những người đó là cha tôi, Thomas Watson Jr., người thật sự mến ông dù rằng họ là những đối thủ của nhau (cha tôi làm CEO của IBM). Một trong những thế mạnh trong kinh doanh của John là ông được rất nhiều người yêu quý.
Mùa thu năm ngoái, ông đến nói chuyện tại Hội nghị Công nghệ của Đại học Haas ở Berkeley và được chào đón nồng nhiệt. Cuối buổi thuyết giảng đó, tôi đến hỏi xin bản ghi chép của ông, và ông đã đưa cho tôi một tấm thẻ ghi chú các đề mục và thời lượng cho từng đề mục được ông ghi chép rất tỉ mỉ. Ông là một con người xuất sắc trên nhiều phương diện.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

P10: Vì Sao Họ Thành Công - Tập 1

Những câu chuyện về các nhà kinh tế chiến lược tài
Allen Grossman - Nguyên GĐ điều hành Tổ chức Outward Bound

Allen Grossman là giáo sư Khoa Quản trị Kinh doanh của Đại học Harvard và là giáo sư thỉnh giảng của trường đào tạo nghiên cứu sinh của Harvard. Grossman từng giữ chức Chủ tịch và Tổng giám đốc điều hành của Công ty Outward Bound sáu năm trước khi lui về làm việc riêng cho các tổ chức phi lợi nhuận vào năm 1997.
Trước khi làm việc cho Outward Bound, Allen là Tổng giám đốc điều hành khu vực của Công ty  Albert Fisher PLC và là Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Giấy Grossman.
Khi tôi đề nghị Alex Sanger, anh rể tôi, giới thiệu cho tôi một người nào đó tiêu biểu, làm việc trong các tổ chức phi lợi nhuận để phỏng vấn, anh ấy không ngần ngại nói ngay là Allen Grossman. Tôi muốn gặp ông ngay khi nghe Alex mô tả về tính chính trực, lòng can đảm và sự thông minh của ông. Tuy nhiên, ông chỉ đồng ý trả lời phỏng vấn sau khi đã hiểu rõ triết lý sống của tôi và mục đích của cuốn sách này.
Allen là người luôn hừng hực khí thế và có đôi mắt biết nói. Ông cảnh báo tôi ngay từ đầu rằng ông là người nói nhiều nên tôi phải chuẩn bị băng ghi âm trước. Quả đúng như vậy, và không như một số người khác, ông sử dụng những lời lẽ rành mạch, khúc chiết diễn tả rõ ràng suy nghĩ và các ý tưởng của ông. Tôi rất ấn tượng về sự nồng nhiệt và những ngôn ngữ cử chỉ, nhất là đôi tay và ánh mắt, mà ông thể hiện trong suốt cuộc phỏng vấn với tôi.
Công việc của Allen giờ đây là nâng cao chí hướng và óc sáng tạo của các doanh nhân thành đạt lên một mức trách nhiệm cao hơn đối với thế giới và mọi người. Tôi đã cho sinh viên của tôi nghe một số trích đoạn trong cuộc phỏng vấn ông vì tôi nhận thấy lời nói của ông có sức lan truyền rất lớn. Ông đúng là một nhà cải cách tư tưởng rất nhiệt tâm và luôn sống đúng với những giá trị của chính mình.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

Hãy hiểu rõ bản thân và có niềm tin chiến thắng
“…Phần lớn những người thực sự thành đạt đều có lòng say mê công việc. Đó là một đức tính tuyệt vời góp phần mang lại cho họ hạnh phúc và thành công.”
- Allen Grossman

Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình đã hoàn toàn trưởng thành, đã đủ những trải nghiệm - tôi chỉ tăng thêm mỗi năm một tuổi mà thôi. Tôi sinh ra ở Newark, New Jersey và sau đó chuyển ra sinh sống ở vùng ngoại ô trù phú, một vùng quê tiêu biểu của New Jersey khi người cha có gốc dân tị nạn của tôi bắt đầu thành đạt.
Tôi vào một trường trung học công lập -  đó là một cuộc sống rất trơn tru, bằng phẳng. Tôi là đứa con giữa trong số năm anh chị em. Nếu được sinh ra lần nữa, tôi vẫn chọn mái ấm này. Tôi có một anh trai, người được xem như một nhà tiên tri của gia đình và ba chị em gái. Từ rất sớm tôi đã biết tự xoay xở lấy mọi việc dù vẫn còn trong sự bảo bọc của cha mẹ.
Cha tôi là một nhà doanh nghiệp di dân cổ hủ. Tôi làm trong kho giấy của ông vào mỗi mùa hè từ khi mới mười một tuổi cho đến khi học xong đại học. Tôi chưa bao giờ làm ở nơi nào khác. Có một sự đánh giá rất cao cho sự chăm chỉ của bạn đối với những công việc gia đình thời đó. Cha tôi rất coi trọng tính thanh liêm và lòng trung thực. Điều đó thật sự có ý nghĩa với ông vì ông đến đây từ một đất nước khác và hành trang duy nhất ông mang theo là sự chính trực.
Khi còn bé, tôi không chắc mình có một niềm tin tiềm tàng hoặc một cảm nhận rõ ràng về khả năng thành đạt của tôi. Theo tôi, gia đình quá trông mong người anh trai của tôi phải thật giỏi giang và thành đạt, còn đối với tôi thì không mấy hy vọng tôi sẽ làm nên trò trống gì. Thực sự tôi cũng có nghi ngờ bản thân điều đó. Điều này càng trầm trọng hơn khi tôi tốt nghiệp đại học năm 1965 và bước vào kinh doanh với cha và anh trai ở Xí nghiệp bao bì giấy của gia đình. May mắn là chúng tôi đã thành công. Cha tôi là người cực kỳ khôn ngoan, ông là người sáng lập nên nhà máy này và rất yêu mến nó, nhưng ông biết rằng nếu ông không chia sẻ bớt quyền hành cho con cái thì chúng tôi sẽ ra đi. Cho nên chẳng bao lâu sau ông bảo: "Được rồi, bây giờ là đến lượt các con. Hãy xem các con có thể làm được những gì nào”. Thật đáng buồn là ông mất vào năm 1972, khi tôi mới hai mươi bảy tuổi. Sau đó anh trai tôi và tôi đã xây dựng xí nghiệp này thành một công ty tầm cỡ quốc gia hoạt động khá thành công.
Tôi biết cha tôi có ý nghĩ rằng trong hai chúng tôi, anh tôi sẽ là người lãnh đạo. Tuy nhiên, anh tôi, lớn hơn tôi sáu tuổi, lại chưa bao giờ nghĩ rằng anh là số một và tôi là số hai. Trên thực tế, anh vui vẻ chia sẻ với tôi mọi đặc quyền nhưng lúc đầu tôi đã không nhận ra. Anh ấy rất thông minh, có tài, có đầu óc chính xác hơn tôi, và có lẽ bảo thủ hơn tôi. Tôi thì thích đối đầu với rủi ro nên chúng tôi bổ sung cho nhau và mọi việc tiến triển rất tốt.
Sống trong thời Kennedy và Martin Luther King, tôi luôn nghĩ về việc làm công ích. Tôi tin rằng cá nhân tôi có thể tạo nên một sự khác biệt cho xã hội. Tôi lao vào nắm công việc kinh doanh của gia đình và cưới vợ từ rất sớm. Lúc tôi tốt nghiệp đại học kinh doanh, phần lớn các bạn tôi đều đã làm việc cho các công ty lớn.
Tự tin là một khái niệm rất thú vị. Nó không đơn giản chút nào. Có lẽ một trong những giá trị của những người có tuổi là hiểu được ý nghĩa thật sự của sự tự tin. Tất cả chúng ta xét về mặt nào đó đều kém tự tin trong những điều chúng ta mong muốn. Tôi cho rằng tự tin là sự hiểu rõ chính mình, biết được đúng lúc mình sẽ vượt qua các thách thức và cũng biết hoài nghi về chính niềm tin của mình một khi nó tỏ ra không còn đúng đắn. Khi còn bé, tôi thường làm ra vẻ bạo gan hơn là tự tin thật sự. Giờ đây, tôi có thể nói: “Tôi cảm thấy không được tự tin lắm nhưng tôi biết tôi sẽ vượt qua thử thách này”. Tôi nghĩ đó mới là sự khác biệt quan trọng.
Từ rất sớm, tôi đã biết rằng thành công đòi hỏi một sự cần cù, tập trung, quyết đoán và biết cách vượt qua các trở ngại không thể tránh khỏi trên đường đời. Dĩ nhiên thành công cũng cần một chút may mắn và bất cứ ai nói rằng không cần sự may mắn là họ nói dối. Một yếu tố không thể thiếu nữa đó là khả năng động viên những người cùng làm việc với chúng ta. Đa số nhân viên của chúng tôi rất năng động và gắn bó với công ty, họ không có cảm giác bị bóc lột vì họ cũng là một thành viên của công ty. Điều này rất quan trọng, nhất là trong các công ty tư nhân. Một số người giỏi thường có khuynh hướng giấu các kỹ năng của mình khi làm việc và không cho phép ai khác hoàn hảo hơn bản thân họ. Trái lại, anh tôi và tôi nhận thấy giao trách nhiệm nhiều hơn cho người khác là cách tốt nhất giúp chúng tôi có nhiều thời gian hơn để theo đuổi các mục tiêu chiến lược vĩ mô hơn. Việc thiết lập những mục tiêu lớn và kỳ vọng cao đối với bản thân và những người xung quanh cũng rất quan trọng; và tất nhiên, sự chính trực cũng rất cần thiết. Nói chung, dù cho những người tôi quen biết là thống đốc bang, là tổng thống hay người đứng đầu của một công ty, dù họ tốt nghiệp  Harvard, Yale hay bất cứ đâu thì mẫu số chung vẫn là sự cam kết về trách nhiệm và sự chuyên tâm vào công việc. Phần lớn những người thực sự thành đạt đều có lòng say mê công việc. Đó là một đức tính tuyệt vời góp phần mang lại cho họ hạnh phúc lẫn thành công.
Sau mười lăm năm điều hành công việc kinh doanh của gia đình, tôi nói với anh tôi rằng tôi sẽ ra đi vì tôi không còn cảm thấy hứng thú nữa. Anh ấy bảo: "Ừ, anh cũng không muốn tiếp tục lâu hơn nữa dù chúng ta đã cộng tác với nhau rất tốt. Chúng ta đã cùng bắt đầu và bây giờ sẽ cùng nghỉ". Thế là chúng tôi quyết định bán công ty với một cái giá rất hời.
Ngay sau khi bán công ty, tôi nhìn vào bức tranh toàn cảnh lúc bấy giờ để xem nơi nào tôi có thể khởi tạo sự khác biệt và quyết định đó là các tổ chức phi lợi nhuận. Dù đã từng nằm trong ban giám đốc và là chủ tịch của hai tổ chức phi lợi nhuận, nhưng lúc này tôi chỉ muốn làm một nhân viên nhỏ bé mà thôi. Tôi phải thôi việc làm thỏa mãn cái tôi của mình sau khi đã thành công trong một lĩnh vực khác, dù hiện giờ tôi không thích lĩnh vực đó lắm. Hai năm tiếp theo, tôi vẫn tiếp tục làm tư vấn viên cho các tổ chức phi lợi nhuận và một số hiệp hội khác. Tôi lãnh nhiệm vụ hỗ trợ các CEO của đối tác trong những dự án quốc tế của Quỹ Rockefeller để giúp họ phát triển thành công các dự án. Thời gian đó, tôi hay ngồi cùng bàn với các nhà tài trợ nên nhiều người nghĩ: "Gã này là ai thế? Hắn làm việc không cần lương à? Chắc hắn bị tâm thần rồi!”. Nhưng với tôi đó lại là một cơ hội lớn vì khi đó, tiền bạc không phải là vấn đề quan trọng nữa nên tôi quyết định học càng nhiều càng tốt để đưa mình lên một trình độ cao hơn. Hai năm rưỡi sau, tôi được đề nghị giữ nhiều vị trí quan trọng trong các lĩnh vực phát triển quan hệ quốc tế ở nước ngoài. Tôi không nhận vì tôi đã lập gia đình và có hai con, một đứa đang học ở trung học và vợ tôi có một hiệu sách ở New York. Vì thế, nếu ra nước ngoài, tôi không thể có một cuộc sống thăng bằng được.
Rồi thật bất ngờ, lời đề nghị làm CEO cho Tổ chức Outward Bound đến với tôi. Lần đầu tiên tôi nghe về tổ chức này và nhận ra rằng những việc tôi đã và đang làm có liên quan đến con người và tối ưu hóa các khả năng tiềm ẩn của họ cũng chính là điều mà Outward Bound đang hướng đến. Tôi có thể áp dụng các kỹ năng quản trị và lãnh đạo của mình vào công việc để làm thay đổi cơ bản cuộc sống của nhiều người. Và tôi đã làm được như thế.
Outward Bound được sáng lập bởi Kurt Haln, một nhà giáo dục có một triết lý sống rất mới và nổi bật. Ý tưởng của Outward Bound là bạn không cần phải chiến thắng nỗi sợ hãi - nhưng bạn cần phải biết cách đương đầu với nó.
Có hai thách thức trong công việc này. Một, tôi là một sự lựa chọn bất thường trong khi có rất nhiều người tại Outward Bound có thể cáng đáng trọng trách đó. Họ đã quen thuộc tất cả nhân viên ở đó và là những người giàu kinh nghiệm hoạt động trong tổ chức này. Hai là, Outward Bound là một tổ chức có cơ cấu kiểu liên đoàn với hơn năm trăm công ty và ba tổ chức quốc tế. Ở vị trí một giám đốc điều hành, tôi phải tạo được sự đồng tâm hiệp lực trong một cộng đồng và thuyết phục họ hiểu rằng thay đổi cơ cấu tổ chức không chỉ mang lại lợi ích cao nhất cho Outward Bound mà còn vì lợi ích của chính họ.
Ở Outward Bound, John Whitehead là một nhà cố vấn vĩ đại và là một tấm gương mẫu mực. John hiện vẫn nằm trong Ban điều hành Outward Bound. Ông là một người đa năng đa tài, từng rất thành công trong vai trò người đứng đầu Goldman Sachs. Ông cũng giữ chức trợ lý Ngoại trưởng Mỹ dưới thời Tổng thống Ronald Reagan và sau này dành một nửa cuộc đời còn lại cống hiến cho các hoạt động ở những tổ chức phi lợi nhuận khác. Tuy nhiên, lúc đó tôi không ý thức về sự cố vấn đóng vai trò quan trọng như thế nào trong cuộc đời của những người thành đạt. Tôi nghĩ cố vấn là những người chuyên điều chỉnh này nọ hơn là truyền đạt các bí quyết. Chức năng đó rất quan trọng vì “sai một li, đi một dặm”. Tôi thường quan sát những người chưa thành công và tìm hiểu nguyên nhân tại sao. Tôi không biết liệu nhà tư vấn có hỗ trợ tích cực cho bạn hay không, hay họ chỉ điều chỉnh hướng đi của bạn sau khi đối chiếu với những thất bại mà họ đã chứng kiến nơi người khác. Người có chí tiến thủ và tinh thần vươn tới sự xuất sắc thì thế nào cũng thành công, bất kể có hay không có cố vấn bên cạnh. Theo tôi, với những người có những phẩm chất thành đạt bẩm sinh và có học vấn tốt thì vai trò của cố vấn không thật sự cần thiết, nhưng đối với những người khác thì cố vấn chắc chắn rất quan trọng.
Điểm yếu lớn nhất của tôi trong công việc là tính cả tin. Tôi tin tất cả mọi người nên dễ bị lạm dụng lòng tốt. Một số người không trung thực và thường xuyên tạc để được thăng chức. Nhiều lần tôi đã bị một số người lợi dụng để mưu cầu quyền lợi cho cá nhân họ. Tuy nhiên, tôi chưa gặp vấn đề nào quá khó khăn đến nỗi không giải quyết được. Hiển nhiên là nhiều khi tôi rất căng thẳng nhưng tôi tin rằng mọi người có thể cùng nhau đạt đến thành công và vượt qua mọi trở ngại.
Đường đến thành công của mỗi người mỗi khác nhau. Có những kẻ rất nhẫn tâm nhưng cũng được xem là thành đạt vì của cải và tiếng tăm của họ. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, họ thực sự là những kẻ khốn khổ. Họ có một cuộc sống gia đình đáng thương, bất hạnh và bất an. Có phải họ thành công nhờ sự thôi thúc của cảm giác bất an, hay bị tác động bởi sự kiêu căng ngạo mạn của họ? Tôi chẳng biết nữa. Nhưng dù sao, tôi vẫn tin rằng trên thế gian này đại đa số là người tốt, tuy vẫn còn nhiều kẻ đê tiện.
Một việc khác cần học hỏi là bạn phải biết chọn các cơ hội đến với mình. Nếu bạn không giỏi phân biệt, bạn phải mất nhiều năm tập trung vào các hoạt động hay các dự án không đáng làm. Trước đây tôi đã không làm tốt điều đó.
Định nghĩa của tôi về thành công gồm khá nhiều yếu tố nhưng suy cho cùng cũng khá đơn giản. Tôi nghĩ sự thành công trong nghề nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tính cách của từng cá nhân. Riêng tôi, tôi thích làm việc với các tổ chức xã hội, con người, và các cộng đồng dân cư. Vì thế, thành công đối với tôi là đưa cộng đồng phát triển nhanh, theo một mô hình tối ưu nhất. Phần còn lại của thành công không nằm trong nghề nghiệp chuyên môn của bạn, mà nằm trong mối quan hệ thường xuyên xung đột giữa tình yêu và công việc. Đối với tôi, tình yêu là tình cảm đối với những người xung quanh: gia đình, bạn bè và bản thân. Để tạo sự cân bằng trong cuộc sống, có lẽ bạn không nên tuyệt đối hóa sự nghiệp của mình. Thành công lớn nhất là khi bạn đạt đến đỉnh cao nghề nghiệp mà vẫn duy trì được một cuộc sống cân bằng với bản thân và những người bạn yêu thương.
Lời khuyên của tôi đối với lớp trẻ ngày nay là phải có đam mê trong nghề nghiệp, dù các bạn bắt đầu trong lĩnh vực kinh doanh hay làm việc trong các tổ chức phi lợi nhuận. Tôi không nghĩ đam mê luôn đem lại thành công nhưng tôi tin rằng bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc và thành đạt trừ phi bạn đam mê công việc bạn đang làm. Hãy thử làm một việc nào đó, rồi kiểm chứng với khả năng của mình và mạnh dạn thay đổi nếu cần. Cơ hội nghề nghiệp không phải là cánh cửa quay, nó không trở lại với bạn lần nữa. Nó giống như các mối quan hệ. Một mối quan hệ tốt không thể tự nhiên mà có. Bạn phải xây dựng và củng cố nó. Sẽ có lúc thuận lợi, lúc khó khăn; những khi vui và nhiều lúc buồn. Nhiều người không dành đủ thời gian cho các cơ hội của mình sau khi nắm bắt chúng. Để biến một cơ hội trở thành sự nghiệp của mình, rất cần ở bạn một sự đam mê.
Nếu bạn không biết đam mê của mình là gì, sớm muộn gì bạn cũng biết thế nào là một công việc không có niềm đam mê. Một trong các phương pháp quản trị tốt nhất là quản trị bằng phép loại suy. Cũng vậy, đam mê cũng có phương pháp loại suy của nó. Khi bạn không thấy đam mê trong công việc, bạn sẽ bắt đầu đi tìm manh mối dẫn đến đam mê của bạn. Đôi khi người ta đi tìm sự đam mê hơn là đi tìm một công việc cụ thể nào đó. Chẳng hạn, nếu tôi thích làm trong các tổ chức từ thiện hay cộng đồng và mục đích của tôi là lãnh đạo thì những gì tôi áp dụng trong các tổ chức đó không quan trọng bằng việc tôi bảo đảm thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo. Nếu mục đích của tôi là hướng tới cái đẹp thì tôi sẽ đi vào ngành làm đẹp phong cảnh, hội họa, thiết kế thời trang… Nhiều bạn trẻ nói thế này: “Tôi muốn vào ngành ngân hàng”. Điều đó có nghĩa là gì? Lĩnh vực nào của ngân hàng? Bạn có thể ở bộ phận tiếp thị kinh doanh, hoặc kế toán, hoặc tổ chức hành chánh,… Ngay cả luật hay các ngành chuyên môn khác đều có một phạm vi công việc rất rộng. Vậy, hãy xác định chính xác ước muốn của mình trước khi chọn một công việc cụ thể.
Napoleon có một câu rất nổi tiếng: “Hãy lao vào, và các cơ hội sẽ mở ra”. Bạn sẽ không bao giờ tìm thấy đam mê nếu chỉ đứng ngoài rìa. Nếu bạn chỉ ngóng chờ cơ hội, chúng sẽ không bao giờ đến. Bạn phải dập tắt cái tôi của mình vì nó khóa chặt bạn và ngăn không cho bạn mạo hiểm. Nhiều đồng nghiệp của tôi không hài lòng với công việc họ đang làm nhưng họ không muốn mạo hiểm với tiếng tăm, địa vị xã hội và cái tôi của họ để đi tìm sự thay đổi. Một khi bạn thoát ra được những níu kéo đó, bạn sẽ tìm thấy những chân trời tự do muôn màu đáng yêu của cuộc sống.
Kết luận
Allen Grossman lớn lên trong một gia đình di cư. Từ rất sớm ông đã phải tự lập và trân trọng sự làm việc chăm chỉ. Cha ông đã dẫn dắt ông vào con đường kinh doanh bằng sự ngay thẳng và lòng trung thực. Các đức tính đó đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp sau này của ông. Như các chiến lược gia có tầm nhìn xa khác, ông đã hoạch định và thực hiện ước mơ của mình trong việc tạo ra một sự khác biệt cho thế giới, bắt đầu từ xí nghiệp giấy và bao bì của gia đình mình và sau đó là những cống hiến không mệt mỏi cho cộng đồng thông qua các tổ chức phi lợi nhuận.
Thật thú vị khi Allen, cũng như các chiến lược gia tầm cỡ khác, đều cho rằng một tinh thần doanh nhân là biết kinh doanh, dám chấp nhận rủi ro và biết truyền cảm hứng cho mọi người. Ông tự nguyện làm việc không lương, cố vấn cho các tổng giám đốc điều hành thuộc hệ thống các tổ chức phi lợi nhuận và trở thành Tổng giám đốc điều hành của Tổ chức Outward Bound, một vị trí mà ông có thể trực tiếp giúp đỡ các cá nhân tối đa hóa tiềm năng của họ, đương đầu với nỗi sợ về sự thiếu tự tin, và vượt qua mọi trở ngại trong nghề nghiệp lẫn cuộc sống.
Ngày nay ông tiếp tục cống hiến cho các tổ chức phi lợi nhuận qua việc giảng dạy các phương pháp nâng cao năng lực tài chính trong hoạt động kinh doanh. Ông cho rằng thành công có nhiều mặt và có sự liên quan mật thiết giữa cuộc sống nghề nghiệp và gia đình. Ông gọi tính hai mặt của thành công là sự mâu thuẫn cố hữu giữa tình yêu và công việc. Ông đưa ra kết luận rằng thành công là sự tối ưu hóa cuộc sống nghề nghiệp trong sự cân bằng với cuộc sống gia đình của từng người. Lời khuyên về thành công của ông là hãy tìm ra niềm đam mê trong công việc, theo đuổi và tạo điều kiện cho nó thăng hoa. Hãy hiểu rõ bản thân và có niềm tin chiến thắng, và bạn sẽ thành công.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM

Jack Kornfield - Tu sĩ Phật giáo

Jack Kornfield là một nhà tâm lý học y khoa, bác sĩ chuyên khoa, huấn luyện viên môn yoga, và là tác giả của nhiều quyển sách, trong đó có ba quyển nổi tiếng nhất: “Đi Tìm Sự Thông Thái”, “Những Câu Chuyện Về Linh Hồn” và “Đường Đến Con Tim”.
Tôi gặp ông tại Trung tâm Yoga Spirit Rock do ông sáng lập tại San Anselmo, California, khi cùng nhóm bạn đến tham quan một buổi tập thiền của các Phật tử.
Lần đó, ông tự bắt chuyện với chúng tôi và sau đó hướng dẫn chúng tôi thực hiện những động tác yoga cơ bản. Ông kể về những kinh nghiệm của bản thân với một giọng điệu rất hài hước. Ngoài ra, ông cũng rất có khiếu kể chuyện tiếu lâm và tôi  hoàn toàn bị ông chinh phục. Tôi có cảm giác như đang chơi đùa với một đứa trẻ mười tuổi, tôi luôn nghĩ về ông như thế. Chúng tôi biết nhau đã nhiều năm. Những lúc tôi than vãn về chuyện gì đó, ông luôn động viên tôi bằng những lời lẽ ân cần nhưng không kém phần hài hước. Jack đã làm cho tôi biết cách tập trung tinh thần và giữ yên lặng trong quá trình thiền định. Ông thường gọi tôi là Coyote Woman, kẻ gây rối trong truyện thần thoại. Đó là một biệt danh mà tôi rất thích.
Cuộc phỏng vấn diễn ra bên quầy hàng lưu niệm của Trung tâm Spirit Rock, giữa những giá sách dạy yoga và những món hàng lưu niệm được nhân viên của ông sưu tầm mang về sau những chuyến du lịch đến các xứ sở Phật giáo khắp nơi trên thế giới. Câu chuyện về Jack cuốn hút tôi như thể có cơ duyên tiền định. Cuộc hành trình với tư cách là một nhà sư của ông đến Thái Lan trong năm năm trước khi trở về Mỹ đầy thử thách và chứa đựng những bài học quý giá. Ông không bao giờ nghi ngờ rằng liệu ông có đi đúng đường hay không, ông sẽ thành công không trong việc hoàn thành những sứ mạng mà ông cần phải thực hiện.
Jack có nhiều phẩm chất tương tự như của các nhà doanh nghiệp và tổng giám đốc điều hành được phỏng vấn trong cuốn sách này: hướng thẳng đến mục đích, cống hiến hết mình cho lý tưởng, và luôn tự tin rằng mình sẽ thành công. Ông cũng có một phong cách gần gũi, đáng yêu, khiêm tốn và sức thu hút của một lãnh tụ, những đức tính đã mang lại cho ông một uy tín lớn trong nhiều cộng đồng khác nhau.
Nguồn: Vì sao họ thành công ? - First News và NXB Trẻ TPHCM