Từ bên trong miệng hầm, Will bật ngọn đèn soi gắn trên đỉnh trước cái mũ bảo hộ màu vàng của thợ hầm mỏ mà nó đang đội trên đầu, và nói vọng lên:
- Tao có một cái giống như vầy để dành cho mày.
Ánh đèn chiếu vào gương mặt của Chester. Nó đang dùng dằng bên miệng hố. Will gắt:
- Mày có xuống hay không? Tin tao đi, tuyệt đối an toàn.
- Mày có chắc không?
- Dĩ nhiên.
Will khẳng định, biểu diễn một màn vỗ mạnh vào một trụ chống bên cạnh và mỉm cười tin tưởng để cổ vũ thằng bạn của mình. Trong bóng tối đằng sau nó, khuất tầm nhìn của Chester, một đám bụi đất rơi rào rào như mưa xuống lưng nó, nó vẫn giữ nguyên nụ cười:
- An toàn như cái nhà. Thật mà.
- Thôi được...
Khi đã lọt vào bên trong, Chester ngạc nhiên đến nỗi gần như á khẩu. Một đường hầm, rộng chừng hai thước và cao cũng cỡ đó, chạy khuất vào bóng tối, vách hầm được tấn bằng những súc gỗ cũ cách đều nhau. Chester nghĩ, có vẻ giống y như mấy hầm mỏ trong mấy bộ phim cao bồi xưa mà người ta chiếu trên tivi vào những buổi trưa chủ nhật.
- Cái này hay! Một mình mày đâu thể làm nổi, đúng không?
Will nhe răng cười đắc chí:
- Một mình tao chứ ai. Tao bắt đầu từ hồi năm ngoái. Mày còn chưa thấy tới một nửa mà. Đi lối này.
Nó đóng ô ván đậy kín miệng hầm lại. Chester quan sát với những cảm xúc lộn xộn khi thẻo trời xanh cuối cùng biến mất. Hai đứa bắt đầu đi dọc một hành lang, ngang qua những gian chứa ván và gỗ làm trụ chống chất lộn xộn ở hai bên.
Chester thì thào:
- Quao!
Hoàn toàn bất ngờ, hành lang mở rộng thành một không gian có kích thước một căn phòng khá rộng, ở đầu và cuối phòng là hai đường hầm rẽ nhánh. Ở giữa phòng là một núi nho nhỏ những cái xô, một cái bàn thô và hai cái ghế bành. Gỗ ốp trần được chống đỡ bằng những cột sắt hiệu Stillson, loại cột có thể điều chỉnh, chúng đã loang lổ vết sét gỉ.
Will nói:
- Về nhà, về nhà rồi.
Chester nói bằng giọng không tin nổi:
- Cái này thật... điên.
Rồi nó cau mày:
- Nhưng mà hai đứa mình ở dưới này có sao không?
- Dĩ nhiên không sao. Ba tao đã dạy tao cách lót ván và chống trụ – đây đâu phải lần đầu tiên tao làm, mày biết không...
Will ngập ngừng, tự thắng mình kịp lúc trước khi nói lộ ra bất cứ điều gì về cái trạm xe lửa mà nó đã cùng cha nó phát hiện. Chester nhìn nó nghi ngờ trong khi nó ho thật to để khỏa lấp khoảng nín thinh giữa cuộc chuyện trò. Nó đã bị cha nó bắt thề giữ bí mật, và nó không thể tiết lộ bí mật đó, cho dù với Chester. Nó khụt khịt mũi rõ to rồi nói tiếp:
- Và tuyệt đối vững chắc. Không nên xây đường hầm bên dưới những tòa nhà – cái đó cần những trụ chống đường hầm kiên cố hơn và cần thiết kế chu đáo hơn. Thêm nữa, cũng không nên làm đường hầm nơi có nước hay mạch suối ngầm – có thể khiến cho toàn bộ công trình trôi trượt đi.
Chester hỏi ngay:
- Quanh đây đâu có nước hả?
Will với lấy từ bên trong một cái hộp bằng giấy bồi để trên cái bàn rồi đưa cái chai nhựa đựng nước cho bạn.
- Tụi mình giải lao một lát.
Cả hai ngồi xuống hai cái ghế bành, hớp từng ngụm nước đóng chai, trong khi Chester ngó lên trần và nhóng cổ nhìn ra hai nhánh đường hầm.
Will thở ra.
- Bình yên, há?
- Ừ.
Chester đáp.
- Rất... ơ... yên tĩnh.
- Không chỉ yên tĩnh, ở dưới này ấm áp và thanh thản. Và cái mùi... cảm thấy như được an ủi, đúng không? Ba tao nói đó là nhà của tất cả chúng ta, hồi xưa thật xưa – hồi thượng cổ hay đại khái vậy – và dĩ nhiên cũng là nơi tất cả chúng ta trở về – lòng đất. Vì vậy, đối với cha con tao, rất tự nhiên thoải mái, như nhà mình vậy.
Chester đồng ý một cách hồ nghi:
- Cho là vậy.
- Mày biết không, tao thường nghĩ là khi người ta mua một cái nhà, người ta sở hữu luôn mọi thứ dưới cái nhà đó.
- Nghĩa là sao?
- Thì, cái nhà của mày được xây trên một miếng đất, chứ gì?
Will vừa nói vừa dộng giầy xuống sàn của cái hang để minh họa.
- Tất cả mọi thứ ở dưới miếng đất đó, sâu tới tâm trái đất, đều là của mày hết. Dĩ nhiên khi càng đi sâu đến tâm trái đất thì “thổ phần”, nếu mày muốn gọi như vậy, sẽ càng lúc càng nhỏ đi, cho đến khi đụng trúng tâm.
Chester chậm rãi gật đầu, chẳng biết nói năng gì cả.
Will mơ màng nói:
- Bởi vậy tao luôn tưởng tượng đào sâu xuống – xuống phần thế giới của mình và suốt cả mấy ngàn dặm sẽ bị lãng phí đó, thay vì chỉ ngồi trong cái nhà dựng khơi khơi trên lớp vỏ của trái đất.
Chester nương theo ý tưởng đó, nói:
- Tao hiểu. Vậy nếu mày cứ đào sâu xuống, mày có thể có một kiểu nhà-chọc-trời nhưng theo hướng ngược lại. Như kiểu lông quặm mọc vô trong hay sao đó.
Nó bất giác gãi vết chàm trên cánh tay. Will đồng ý:
- Ừ, đúng như vậy. Trước giờ chưa nghĩ như vậy, hình dung hay đó. Nhưng ba tao nói chúng ta không thực sự sở hữu tất cả đất phía dưới mình – Nhà nước có quyền xây dựng đường ống và đại loại nếu họ muốn.
- Ủa.
Chester kêu lên, thắc mắc là sự đã vậy thì nãy giờ tụi nó nói chuyện nhà-chọc-đất làm gì?
Will bật đứng dậy.
- Thôi, tự trang bị cho mày đi, bốn cái xô với một xe cút-kít, đi theo tao xuống đây.
Nó chỉ vào một trong mấy con đường hầm tối thui.
- Hơi bị cực với đá.
Cùng lúc ấy, ở trên mặt đất, tiến sĩ Burrows sải bước cắm cúi đi trên con đường về nhà. Ông luôn thích cái cơ hội để suy tư trong lúc đi bộ hai cây số, và điều đó còn có nghĩa là ông tiết kiệm được tiền vé xe buýt.
Ông dừng chân bên ngoài quầy bán báo, đột ngột khựng lại giữa đường, chông chênh một thoáng, xoay mình chín chục độ, rồi bước vào.
Người đàn ông ngồi sau quầy ngước mắt khỏi tờ báo trải trước mắt nhìn lên nói:
- Chào tiến sĩ Burrows! Tôi đang bắt đầu nghĩ chắc là chúng tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại ông. Tưởng ông đã lên tàu đi ngao du khắp thế giới không chừng.
- À, không, đâu có.
Tiến sĩ Burrows đáp lại, cố gắng tránh nhìn mấy thỏi sô-cô-la hiệu Snicker, Mars và Walnut Whips được bày ngay trước mắt ông đầy cám dỗ.
- Chúng tôi vẫn giữ đủ các số báo cho ông.
Người bán hàng cúi xuống phía dưới cái quầy và lôi ra một xấp tạp chí.
- Chúng đây. Khai quật Hôm nay. Tập san Khảo cổ học. Nguyệt san của Quản thủ. Tôi hy vọng mọi thứ đúng và đủ cả?
Tiến sĩ Burrows lục tìm ví tiền.
- Xù thôi. Chẳng lẽ ông không muốn bán chúng cho ai khác à!
Người bán báo nhướng chân mày lên. Ông cầm tờ giấy bạc hai chục bảng của tiến sĩ Burrows, nói:
- Cứ tin tôi, ở đây tuyệt nhiên không có ai khác hỏi mua mấy tờ báo đó.
Ông ngó thấy mấy móng tay dính đất của tiến sĩ Burrows bèn hỏi:
- Coi bộ ông đang đeo đuổi công việc gì đó nhỉ? Xuống một mỏ than à?
- Không.
Tiến sĩ Burrows đáp, ngắm nghía đất đóng trong kẽ móng tay của ông.
- Thực ra tôi đang tự sửa một chỗ dưới tầng hầm nhà tôi. Có cái hay là tôi không gặm móng tay, đúng không nào?
Tiến sĩ Burrows rời khỏi quầy báo, mang theo mớ báo mới, cố gắng nhét kỹ chúng vô ngăn bên của cái cặp khi ông đẩy cửa mở ra. Vẫn còn loay hoay với mớ tạp chí, ông bước ra lề đường, bị lóa mắt, nên đâm sầm vô một kẻ nào đó đang di chuyển rất nhanh. Há hốc miệng vì bất ngờ, ông dội lui khỏi một người đàn ông lùn, cục mịch, mà ông đã tông phải.
Tiến sĩ Burrows làm rớt cả cái cặp lẫn mớ tạp chí. Người đàn ông kia, người có vẻ vững vàng như một cái đầu máy xe lửa, dường như chẳng bị hề hấn suy suyển chút nào, chỉ tiếp tục đi. Tiến sĩ Burrows bối rối và lắp bắp nói với theo ông kia để xin lỗi, nhưng ông ta vẫn cắm cúi đi, chỉ chỉnh lại cặp kính râm, hơi ngoảnh lại để đáp lễ tiến sĩ Burrows bằng một cái nhếch mép.
Tiến sĩ Burrows sửng sốt đến lặng người. Đó là một người-đội-mũ. Gần đây, ông đã bắt đầu chú ý, lẫn trong số dân chúng bình thường ở Highfield, xuất hiện một loại người có vẻ – thế nào nhỉ, khác, nhưng không lộ liễu quá đáng. Là người có thói quen quan sát thiên hạ, và phân tích tình huống như ông luôn làm, ông cho là những người đó có mối liên hệ với nhau như thế nào đó. Điều khiến cho ông ngạc nhiên nhất, ấy là khi ông nêu ra vấn đề thì chẳng một ai khác ở Highfield có vẻ nhận ra những người mặt bèn bẹt khá đặc biệt, đội nón lưỡi trai dẹp, khoác áo đen và đeo kính râm rất dày đó.
Khi tTiến sĩ Burrows đụng phải người đàn ông, suýt nữa làm văng cặp kính râm đen như mực tàu của ông ta, ông đã có cơ hội tiếp cận “mẫu người” ở cự ly sát rạt lần đầu tiên. Ngoại trừ gương mặt bèn bẹt một cách kỳ quái và mái tóc lưa thưa, ông ta có đôi mắt xanh rất nhạt, gần như trắng, trên một làn da trắng như bột và trong suốt. Nhưng còn một điểm nữa: một mùi rất kỳ lạ lởn vởn quanh ông ta, một mùi ẩm mốc. Mùi đó khiến tiến sĩ Burrows liên tưởng tới mấy cái rương quần áo cũ mốc mà những người hảo tâm vô danh đã quăng lên thềm của viện bảo tàng.
Ông quan sát người đàn ông cắm cúi sải bước đi xuống đường High và đi xa hút, cho đến khi ông ta chỉ còn thấp thoáng, và rồi một khách bộ hành khác băng qua đường, cắt ngang tầm nhìn của tiến sĩ Burrows. Trong tích tắc gián đoạn đó, người-đội-mũ biến mất. Tiến sĩ Burrows trố mắt nhìn xuyên qua cặp mắt kính trong lúc cố dõi theo bóng người nọ, nhưng mặc dù lề đường không đến nỗi tấp nập người qua lại, ông có cố nhìn cách nào cũng không thể thấy người đó nữa.
Bỗng nhiên tiến sĩ Burrows thấy ông nên cố gắng theo dõi coi người-đội-mũ đi đâu. Nhưng là một người biết giữ kẽ, tiến sĩ Burrows không thích bất kỳ hình thức đối đầu nào và nhanh chóng tự thuyết phục mình rằng làm vậy chẳng hay ho gì, nhất là thái độ của người đó tỏ ra thù địch. Vậy là bất kể ý tưởng trinh thám gì vừa nảy ra cũng lập tức bị hủy bỏ. Mà biết đâu, có thể vào một ngày khác ông có thể tìm ra chỗ ở của người đó, và có thể cùng cả một gia đình những người đội mũ y chang nhau. Vào lúc ông cảm thấy táo bạo hơn một chút.
RODERICK GORDON & BRIAN WILLIAMS
0 nhận xét:
Đăng nhận xét