Ánh sáng mà trái cầu phát ra rõ ràng đã biến đổi từ ánh sáng dịu nhạt mà ông đã thấy trong sảnh chính thành ánh sáng huỳnh quang xanh biếc rực rỡ. Trong lúc ông quan sát, ông có thể thề là ánh sáng càng lúc càng sáng hơn, và chất lỏng bên trong trái cầu di chuyển càng sống động hơn.
Ông lẩm bẩm nói với mình:
- Tuyệt vời! Vật chất nào khi chung quanh càng tối thì càng phát sáng? Không, chắc là mình nhầm, chứ lẽ nào! Ắt là sự phát sáng này chỉ dễ nhận thấy hơn ở trong này.
Nhưng nó đã phát sáng hơn; ông thậm chí không cần mở đèn trên bàn để tìm ra cây viết, bởi vì trái cầu đang phát ra một ánh sáng xanh biếc huy hoàng, hầu như rạng rỡ tựa ánh sáng ban ngày. Khi ông rời văn phòng, trở lại sảnh chính với bức thư cảm tạ người hiến tặng, ông giơ trái cầu lên cao trước mặt ông. Không sai lệch chút nào, ngay khi ông vừa bước trở ra vùng sáng, trái cầu mờ đi ngay.
Cụ Oscar sắp nói điều gì đó, nhưng Tiến sĩ Burrows hấp tấp đi ngang qua mặt cụ, đi thẳng tới cửa chính của viện bảo tàng, và chạy luôn ra đường. Khi cánh cửa đóng mạnh sau lưng, ông còn nghe cụ Oscar quát:
- Này! Này!
Nhưng Tiến sĩ Burrows quá chú tâm vào trái cầu nên phớt lờ hẳn cụ già. Khi ông giơ trái cầu lên cao trong ánh sáng ban ngày, ông thấy trái cầu hoàn toàn ngừng phát sáng và chất lỏng bên trong trái cầu đậm lại thành một màu xám xịt. Ông càng đứng lâu ngoài ánh sáng, phơi trái cầu ra ánh sáng tự nhiên, chất lỏng bên trong nó càng sậm đen lại, đến khi trở thành gần như đen kịt, như dầu thô vậy.
Vẫn đung đưa trái cầu trước mặt, ông quay trở vào trong viện bảo tàng, vừa ngắm chất lỏng bắt đầu tự xoáy lên thành một cơn bão tí ti và lại sôi động lên một cách kỳ lạ.
Cụ Oscar đang đứng đợi ông với vẻ mặt băn khoăn.
Tiến sĩ Burrows nói:
- Tuyệt trần đời... Tuyệt trần đời!
- Này, ông bạn, tôi tưởng đâu ông sắp bị ngất xỉu chớ. Tôi đã tự hỏi phải chăng ông cần không khí khi hấp tấp chạy ra ngoài như vậy? Ông có cảm thấy muốn xỉu không?
- Không, tôi khỏe, tôi khỏe mạnh thật mà, cụ Embers. Chỉ là tôi muốn kiểm tra chút đỉnh. Bây giờ, xin cụ vui lòng cho biết địa chỉ của bà Tantrumi.
Cụ Oscar nói:
- Thật vui mừng thấy ông mãn nguyện. Thế này nhé, trong khi chúng ta còn quan tâm việc này, tôi sẽ cho ông số điện thoại của ông nha sĩ của tôi, để ông có thể chăm sóc răng cỏ ngay lập tức đây.
Chương bốn
Will đang tựa vào tay lái chiếc xe đạp của nó ở lối vào một bãi đất hoang có cây cỏ và bụi rậm vây bọc chung quanh. Nó liếc nhìn đồng hồ đeo tay một lần nữa và quyết định chỉ chờ Chester thêm năm phút thôi, chứ không lâu hơn nữa. Nó đang lãng phí thời giờ quý báu.
Mảnh đất này là một trong những thửa đất bị bỏ quên ở vùng ngoại ô bất cứ thành phố nào. Mảnh đất này chưa được xây dựng nhà cửa, có lẽ vì nó nằm kế bên bãi rác của thành phố và những núi rác cứ mọc lên rồi xẹp xuống một cách đều đặn đáng ngán.
Dân địa phương gọi chỗ này là khu “Bốn chục Hố” nhờ vô số cái hố khoét lõm bề mặt mảnh đất, có cái sâu gần tới ba thước. Đây chính là vũ đài diễn ra thường xuyên những trận thư hùng giữa hai băng teen đối nghịch nhau, băng Hội và băng Cạch, thành viên của hai băng này là bọn trẻ ở khu dân cư tạp hơn của Highfield.
Đây cũng là địa điểm đua xe đạp khoái nhất của bọn trẻ, cả xe gắn máy chôm, càng ngày càng nhiều. Những chiếc xe chôm đó được chạy vô khu này, rồi bị luộc, bộ khung xe đen như than thành phế thải vất bên mép mấy cái hố xa, cỏ mọc xuyên qua bánh xe, quanh mấy cái vỏ máy xe gỉ sét. Thỉnh thoảng chỗ này cũng là hiện trường giải trí cho những đứa mới lớn dở hơi chơi trò săn chim hay bắt nhái. Hầu như mọi lần, những sinh vật khốn khổ đó bị hành hạ từ từ đến chết và những cái xác nhỏ bé tội nghiệp của chúng bị xiên bằng những cái que trong sự reo hò hân hoan trẻ trung ác độc.
Khi Chester quẹo qua khúc quanh về phía khu Hố, mắt nó chợt bắt gặp một ánh kim loại sáng chói lóe lên. Đó là cái lưỡi xẻng được đánh bóng của Will mà nó đeo chéo trên lưng, tựa như bảo kiếm của võ sĩ Nhật.
Nó mỉm cười, đi nhanh hơn, kẹp chặt cái thuổng làm vườn bình thường của nó vào ngực và nhiệt tình vẫy tay với cái hình dáng đơn độc xa xa, một hình dáng không thể nào nhầm lẫn được nhờ vẻ mặt tái nhợt một cách đáng chú ý, lại đeo kính râm và đội mũ kết.
Thực ra, toàn bộ bề ngoài của Will hơi kỳ: nó đang mặc “bộ đồ đào đất” gồm một cái áo len to quá khổ có hai miếng vá bằng da ở cùi chỏ, một quần nhung sọc cũ lấm lem bụi bặm, không xác định được màu sắc vì một lớp bùn khô bao phủ đều khắp. Vật mà Will giữ sạch bóng là cái xẻng yêu dấu và mũi giầy được bọc kim loại của đôi giầy bảo hộ lao động nó đi.
- Mày mắc cái gì mà trễ vậy?
Will hỏi khi Chester đến gần. Will không thể hiểu sao lại có bất cứ điều gì khiến bạn nó chậm trễ, sao lại có bất cứ cái gì có thể quan trọng hơn chuyện này.
Đây là cột mốc quan trọng cho cuộc đời Will, lần đầu tiên nó để cho một ai đó ở trường – bất kể là ai – được xem một trong những dự án của nó. Nó còn chưa yên tâm là nó đang hành động khôn ngoan; nó vẫn chưa biết rõ Chester lắm.
Chester phùng má cáo lỗi:
- Xin lỗi nghe, bị xì lốp, nên phải bỏ xe đạp ở nhà rồi chạy bộ tới đây – trời nóng xì khói.
Will liếc nhìn mặt trời khó chịu, nhăn mặt. Mặt trời không thân thiện với nó lắm: vì nó mắc chứng thiếu sắc tố nên ngay cả ánh sáng yếu ớt vào ngày râm mây cũng thiêu đốt da nó. Chứng bạch tạng khiến nó có mái tóc trắng như cước chĩa ra dưới vành mũ, và đôi mắt xanh lợt của nó lúc này đang bồn chồn ngó đăm đăm về phía trong khu Hố.
- Thôi được, tụi mình đi thẳng tới đó. Mất toi quá nhiều thì giờ rồi.
Will nói giọng cộc lốc. Nó đạp dấn chiếc xe đạp của nó tới trước, không thèm liếc Chester tới một cái. Chester đành chạy theo nó, nhưng không tài nào theo kịp. Nó giục:
- Mau lên, lối này.
Chester vừa thở hồng hộc vừa gọi với theo nó:
- Ê, tao tưởng tới rồi chứ!
Chester Rawls có bề ngang thân thể gần bằng chiều cao của nó và khỏe như một con bò mộng, nổi danh trong trường là Cục-Vuông hay Chester-Tủ. Nó bằng tuổi với Will, nhưng rõ ràng là nó được nuôi kỹ hơn hoặc được thừa hưởng di truyền thể hình của lực sĩ cử tạ. Một trong những hình nhảm nhí nhưng không đến nỗi bậy bạ lắm vẽ trên vách nhà vệ sinh tiết lộ lý lịch nó: cha là một cái Tủ, còn mẹ là một cái Bàn mặt gồ.
Mặc dù giữa Will và Chester không có vẻ gì có thể phát triển một tình bằng hữu thắm thiết, nhưng điểm chung duy nhất đã khiến hai đứa tụi nó gắn bó nhau chính là đặc điểm đã khiến tụi nó lạc lõng trật chìa ở trong trường: làn da khác thường của hai đứa. Da của Chester bị những vết chàm trầm trọng khiến cho da đóng vẩy và khi bong ra thì da non ngứa ngáy cực kỳ.
Nó được giải thích một cách vô tích sự là bệnh này do căng thẳng thần kinh hay dị ứng gì đó không xác định được tác nhân. Cho dù nguyên nhân là gì đi nữa, nó cũng đã phải chịu đựng sự chọc ghẹo và nhạo báng của lũ bạn, mà dã man nhất là bị gọi “con gì đó có vẩy lẩy ra vàng”, hoặc “đít rắn”. Đến khi hết chịu đựng nổi, nó đánh trả và nhờ ưu thế thể lực, nó dần cho bọn thối mồm những trận ra trò.
Đồng cảnh ngộ, vẻ tái nhợt và trắng ngà của Will khiến nó bị tách ra khỏi bọn trẻ bình thường, và có những lúc nó đã chịu đựng dàn đồng ca độc địa rống gọi nó là “Phấn ti” và “Người tuyết pha sương”. Nó còn khốn khổ hơn cả Chester, vào một buổi chiều mùa đông nó đã phát khùng khi bọn đầu bò phục kích nó trên đường nó đi đào hầm. Thật không may cho bọn chúng, Will đã sử dụng cái xẻng của nó hết sức hiệu quả, và trận chiến đẫm máu mà chỉ một bên có vũ khí đã diễn ra với hậu quả là những cái răng bể và những cái mũi gãy thê lương.
Sau những vụ đó, dễ hiểu là cả Will và Chester bị tẩy chay và xa lánh một thời gian, bị đối xử với ít nhiều nể nang ngán sợ dành cho mấy con chó điên. Tuy nhiên, cả hai đứa vẫn không thể tin cậy lũ trẻ, biết tỏng là nếu mình mà bỏ vũ khí xuống thì chắc chắn trò hành hạ khủng bố sẽ tái diễn lập tức.
Vì vậy, mặc dù có thể lực ngon lành, nhưng Chester vẫn không được cho vào những đội thể thao của trường, mà bị gạt ra rìa, làm kẻ cô độc ở bên lề sân chơi. Ẩn náu trong sự cô lập của mình, hai đứa chẳng nói chuyện với ai khác, và cũng chẳng ai chuyện trò với chúng.
Kể ra cũng phải trải qua nhiều năm trời hai đứa mới bắt đầu nói chuyện với nhau, mặc dù trong suốt thời gian dài đó tụi nó đã thầm ngưỡng mộ nhau qua cách thức mỗi người tự kháng cự lại trò hiếp đáp của lũ trẻ. Hai đứa từ từ nhích lại gần nhau mà không thực sự hay biết điều đó, chỉ ở bên cạnh nhau mỗi lúc một lâu hơn trong thời gian ở trường. Will đã từng cô độc không bạn bè một thời gian quá lâu đến nỗi nó phải thừa nhận là có bạn thì thật là dễ chịu, nhưng Will biết là nếu tình bạn phát triển thì sớm muộn gì cũng đến lúc nó phải chia sẻ với Chester nỗi đam mê vĩ đại của nó – những cuộc khai quật. Và bây giờ là lúc đó.
Will cưỡi xe đạp chạy giữa mấy mô đất mọc đầy cỏ luân phiên những hầm hố và những đống rác mà mấy xe xúc rác bỏ lại, khi đến được mé tuốt bên kia nó dừng xe một cách thiện nghệ. Nó xuống xe, giấu chiếc xe đạp vào một cái hố đào bên dưới một cái vỏ xe hơi bỏ phế, bị gỡ đồ và gỉ sét, nên không dễ bị phát hiện.
Khi Chester chạy kịp tới nơi, Will tuyên bố:
- Tới rồi.
Chester vừa thở hổn hển vừa ngó lom lom quanh chỗ đất dưới chân nó hỏi:
- Tụi mình sẽ đào chỗ này hả?
Will nói:
- Không. Lùi lại một tí.
Chester lùi cách Will hai bước, ngước nhìn nó với vẻ kinh ngạc:
- Tụi mình sắp đào một cái mới hả?
Will không thèm trả lời, thay vào đó nó quỳ xuống và có vẻ dò dẫm gì đó trong đám cỏ mọc dày. Nó đã gặp cái mà nó tìm – một đoạn dây có thắt nút – bèn đứng dậy, cầm đoạn dây kéo mạnh. Chester ngạc nhiên thấy một kẽ hở lộ ra trên mặt đất và một ô ván gỗ được lật lên, đất cát rơi rớt ra cho thấy bên dưới ô ván đó là một cửa hầm tối thui.
Chester hỏi Will:
- Mày che giấu nó chi vậy?
Will đáp với thái độ chủ nhân ông:
- Chẳng lẽ để cho lũ cặn bã quậy tùm lum công trình khai quật của tao à?
Chester bước tới gần, dòm vô lỗ hổng, hỏi:
- Tụi mình đâu cần chui xuống dưới hả?
RODERICK GORDON & BRIAN WILLIAMS
0 nhận xét:
Đăng nhận xét