Home » » Âm phủ - kỳ 7

Âm phủ - kỳ 7

Ở dưới lòng đất, Will và Chester thay phiên đào đục một vách đá mà Will đã xác định là một loại sa thạch. Nó mừng là đã rủ Chester đi khai quật cùng nó, bởi vì Chester quả thật có vẻ có khiếu về việc này.
Nó quan sát với vẻ ngưỡng mộ âm thầm khi Chester vung cây cuốc chim lên bằng một sức mạnh dễ sợ, một khi vết nứt xuất hiện trên mặt vách đá, như thể Chester biết chính xác khi nào bửa ra được những tảng đá rời mà Will nhanh nhẩu hốt vô mấy cái xô.
- Nghỉ một lát nghen?
Nó đề nghị khi thấy Chester bắt đầu mệt.
- Ngồi xuống thở một cái.
Will nói câu đó với nghĩa đen, bởi vì lối vào tới chỗ tụi nó đào xới đã được bít lại, chẳng mấy chốc tụi nó đã cảm thấy thiếu không khí và ngột ngạt. Hai đứa đang ở chỗ cách gian phòng lớn khoảng sáu mét.
Nó nói với Chester khi cả hai cùng đẩy cái xe cút kít đầy đá trước mặt:
- Nếu tao theo đường hầm này xa hơn, tao sẽ phải khoét một ống thông gió thẳng đứng để lấy không khí. Mỗi tội dựng được một cái như vậy cực lắm, trong khi tao có thể cứ tiến tới đào xuống ở đây.
Hai đứa về tới gian phòng lớn, ngồi xuống ghế bành, uống nước cho đã.
Chỉ vào mấy cái xô đầy đất đá trên xe cút kít, Chester hỏi:
- Vậy tụi mình làm gì với mớ đó?
- Lôi chúng lên mặt đất, liệng vô mấy cái rãnh bên cạnh.
- Làm vậy có ổn không?
- Ờ, nếu có ai hỏi thì tao chỉ nói là tao đào hào cho một trò chơi chiến tranh.
Will đáp gọn. Tu thêm một hơi từ chai nước của nó, Will nuốt ừng ực.
- Người lớn quan tâm làm gì chứ?
Nó nói tiếp với vẻ ngang ngược:
- Đối với họ, tụi mình chỉ là mấy đứa con nít khờ khạo với xẻng với xô.
Chester chớp chớp mắt nhìn quanh gian phòng lớn, nói:
- Họ sẽ quan tâm nếu họ thấy cái này – cái này không phải là thứ con nít bình thường làm. Tại sao mày làm, hả Will?
- Nhìn thử những cái này đi.
Will nhẹ nhàng nhấc cái sọt bằng nhựa ở bên cạnh cái ghế bành của nó đặt lên đùi. Rồi nó bắt đầu lấy ra một lô các thứ đồ vật, chồm ngang qua mặt bàn để đặt từng món lên đó. Trong số đó có mấy cái vỏ chai Codswallop – những chai nước ngọt thời Victoria có hình thù cổ chai quái đản chứa một viên bi thủy tinh – và một mớ chai thuốc đủ kích cỡ và màu sắc, tất cả đều có nước bóng mờ xinh đẹp từ thời chúng bị vùi trong đất.
- Và những cái này nữa.
Will nói một cách kính cẩn khi nó bày ra một dãy những hũ paté thời Victoria nhiều kích cỡ, có những cái nắp chạm trổ và tên bằng nét chữ xưa uốn éo mà Chester chưa từng thấy bao giờ. Chester quả là có vẻ thích thú thật, lần lượt cầm từng hũ lên, hỏi Will về niên đại của chúng hay nơi Will đã đào chúng lên.
Được khuyến khích, Will tiếp tục cho đến khi mọi thứ nó đã tìm được trong những cuộc khai quật trước đây đều được đem ra đặt lên bàn. Rồi nó ngồi ngả ra lưng ghế, quan sát kỹ phản ứng của thằng bạn mới kết.
Chester dùng ngón tay thăm dò một đống vật kim loại nặng nề gỉ sét, hỏi:
- Đám này là gì?
- Đinh đầu hoa hồng. Có lẽ thế kỷ thứ mười tám. Nếu nhìn kỹ mày sẽ thấy mỗi chiếc mỗi khác nhau, bởi vì chúng được làm bằng tay...
Nhưng trong lúc hào hứng, Chester đã đi lần xuống tới cuối bàn, nơi nó bắt gặp một vật khiến nó chú ý.
- Cái này dễ thương quá.
Nó nói, cầm một ve nước hoa nhỏ lên, xoay xoay để cho ánh sáng chiếu xuyên qua có màu tím hoa cà và màu xanh cô-ban.
- Không tin được là ai đó đã làm ra nó.
Will tán đồng:
- Ừ, tuyệt trần. Nếu mày thích mày cứ giữ lấy.
- Không!
Chester nói, ngạc nhiên vì được tặng.
- Lấy đi mà. Tao còn một cái khác giống y vậy để ở nhà.
- Ê, hay thật... cám ơn nghen.
Chester nói, vẫn chiêm ngưỡng cái ve đựng dầu thơm với sự mê ly đến nỗi không nhận thấy Will nở một nụ cười toe toét tươi không tưởng tượng nổi. Will thực tế chỉ sướng vào những lúc khoe với cha nó những thành tựu mới nhất mà nó đào được, còn chuyện này thì vượt xa cả điều nó hy vọng – có người đồng trang lứa với nó có vẻ thực sự yêu thích thành quả lao động của nó.
Đưa mắt nhìn khắp cái bàn bày biện tùm lum, nó cảm thấy phồng lên niềm tự hào. Nó thường hình dung chính nó trở về thời quá khứ đoạt lấy những mẩu tí hon này của lịch sử bị vứt bỏ. Đối với Will quá khứ là một chốn tử tế hơn nhiều so với hiện thực u ám của hiện tại. Nó thở dài khi nó bắt đầu cất mọi thứ vào cái sọt.
- Tao chưa tìm được mẫu hóa thạch nào dưới này... thứ gì đó thật sự xưa... nhưng ai biết được vận may của mình.
Nó liếc về hướng những đường hầm nhánh với vẻ khát khao, nói:
- Đó mới là tất cả sự ly kỳ.

Tiến sĩ Burrows huýt sáo, đung đưa cái cặp theo nhịp chân bước vội của ông. Ông quẹo qua góc đường lúc 6 giờ 30 chiều, chính xác như xưa nay ông luôn như vậy, và căn nhà của ông hiện ra.
Đó là một trong những căn nhà chen chúc trên đại lộ Broadlands – một dãy thẳng hàng những cái hộp gạch vừa đủ chỗ cho một gia đình bốn người. Ưu điểm bù trừ là phía này của con đường bám vào sau lưng công viên, cho nên những ngôi nhà ít nhất cũng mở được tầm nhìn ra một quang cảnh rộng rãi, cho dù người ta buộc phải nhìn ra từ những căn phòng bé tẹo, chẳng đủ chỗ để vung tay chứ đừng nói là xoay trở tứ chi.
Khi ông đã tự mở cửa cho mình vào và đứng trong hành lang, sắp xếp lại mớ báo và tạp chí trong cái cặp của ông, con trai ông đang trên đường về tới nơi. Will cưỡi chiếc xe đạp một cách thiện nghệ và chạy bằng tốc độ gãy cổ về đến đại lộ Broadlands, cái xẻng sáng bóng đeo trên lưng nó lấp loáng dưới ánh sáng đỏ của những ngọn đèn đường vừa được thắp lên. Nó khéo léo lượn lách giữa những lằn vôi trắng ở giữa con đường và cúi rạp xuống tay lái khi phóng xe xuyên qua cánh cổng mở, phanh xe của nó rít lên âm thanh hết cỡ của tiếng kêu chói tai khi nó phanh gấp dưới mái nhà để xe. Nó xuống xe, khóa lại, rồi đi vô nhà.
Will thuộc loại con trai cần không gian khoáng đạt. Vì vậy, hiếm khi nào thấy mặt nó ở nhà ngoại trừ lúc ăn và ngủ, coi nhà chẳng khác gì quán trọ, như nhiều đứa con trai cùng độ tuổi với nó. Nỗi khao khát thường xuyên được ra ngoài trời của nó gặp phải một vấn đề duy nhất là: vì nó không thể phơi mình lâu ngoài ánh nắng, nó buộc phải đi xuống lòng đất mỗi khi nó có được cơ hội. Dĩ nhiên, nó không phiền hà chuyện đó chút nào.
Nó chào cha nó:
- Thưa ba.
Cha nó đang tạo vẻ đĩnh đạc một cách luộm thuộm ở ngay trong phòng khách, một tay vẫn còn cầm cái cặp trong khi mắt thì ngó cái gì đó trên tivi.
Tiến sĩ Burrows chắc chắn là ảnh hưởng lớn nhất trong cuộc đời con trai của ông. Mỗi nhận xét bình thường hay một tí thông tin vụn vặt của cha nó cũng đủ gợi hứng cho Will lao vào một cuộc “điều tra” hăng hái nhất, điên rồ nhất, thường dính dáng đến những cuộc đào xới bở hơi tai.
Tiến sĩ Burrows luôn luôn tìm cách có mặt “đúng lúc bóp cò” trong những cuộc đào xới của con trai nếu ông nghi là sẽ có cái gì đó có giá trị khảo cổ chân chính được khai quật, nhưng phần lớn thời gian ông thích chúi mũi vào những cuốn sách ông cất dưới tầng hầm, tầng hầm của ông. Ở dưới đó ông có thể trốn ra khỏi đời sống gia đình, thả mình vào những giấc mơ của những đền đài Hy Lạp vang vọng và những trụ cột La Mã nguy nga diễm lệ.
- Ờ, à con hả, Will.
Ông lơ đãng đáp lại lời chào của con trai sau một lúc im lặng hơi lâu, vẫn còn bị cái tivi thu hút. Will phóng mắt qua khỏi cha nó để nhìn về chỗ mẹ nó ngồi, cũng đang mê mẩn theo dõi chương trình trên tivi.
- Thưa mẹ.
Will nói xong thì đi ra khỏi phòng không chờ đợi câu trả lời.
Mắt bà Burrows bị hút dính vào một chuyển biến bất ngờ và cực kỳ nguy hiểm trong bản tin ở phòng cấp cứu.
Cuối cùng bà cũng chào lại, mặc dù Will đã ra khỏi phòng:
- Ừ.
Cha mẹ của Will gặp nhau lần đầu ở trường đại học khi bà Burrows là một sinh viên khoa truyền thông đang có triển vọng, toàn tâm toàn ý theo đuổi sự nghiệp truyền hình.
Không may, truyền hình vận vào đời bà lúc này vì một lý do hoàn toàn khác. Bà xem tivi với sự ngưỡng mộ gần như cuồng tín, tung hứng các chương trình bằng hai đầu máy ghi hình khi các chương trình bà khoái chiếu trùng giờ nhau, mà mấy chương trình này hơi bị nhiều.
Nếu người ta có thể chụp hình được ấn tượng về một con người, một hình ảnh được nhớ tới trước tiên khi người ta nghĩ đến người đó, thì ấn tượng về bà Burrows sẽ là ảnh bà nằm nghiêng trên chiếc ghế bành bà khoái nhất, trên tay ghế đặt ngay ngắn một hàng máy điều khiển tivi từ xa, còn chân bà thì gác trên một cái ghế đẩu chồng chất những trang chương trình tivi xé ra từ các tờ báo.
Bà nằm đó, hết ngày này sang ngày khác, hết tuần này đến tuần khác, vây quanh bà là một mớ hỗn mang bừa bộn những cuộn băng ghi hình, đông cứng trong ánh sáng nhấp nhá của màn ảnh nhỏ, thỉnh thoảng trở chân chỉ để cho người ta biết là bà vẫn còn sống.
Phòng khách, nơi ngự trị của bà, bày biện các thứ bàn ghế đã từng có một thời được đối xử tử tế hơn bây giờ: Một bộ ghế gỗ gồm từng chiếc lẻ đủ loại được sơn màu tím hay lam, hai cái ghế bành không cùng một bộ được trùm lỏng lẻo bằng một thứ vải màu xanh đậm đã phai, và chiếc trường kỷ mà chỗ gác tay đã sờn chỉ, tất cả những thứ đó bà và Tiến sĩ Burrows đã được thừa kế từ nhiều năm qua.
Như lệ mỗi tối, Will đi vô nhà bếp, cụ thể hơn là đến cái tủ lạnh. Nó nói khi mở cửa tủ lạnh, nhưng chẳng buồn liếc mắt đến người kia khi nhận ra sự có mặt của người đó trong phòng.
- Có gì ăn không mày? Tao đói chết được.
- À, ông tướng sình đã về.
Rebecca nói với anh.
- Em đã có cảm giác buồn cười hết sức là anh sắp chường mặt ra.
Con nhỏ đóng sập cửa tủ lạnh lại để ngăn anh nó thò mũi vô bên trong, và trước khi Will kịp càm ràm, nó liệng vô tay Will một cái hộp trống rỗng.
- Gà chua ngọt, cơm và vài thứ rau cải. Nó được bán một-tặng-một ở siêu thị.
Will nhìn cái hình vẽ trên cái hộp, và chẳng một lời bình luận, liệng trả cái hộp cho em nó.
- Sao, vụ đào xới mới nhất tới đâu rồi?
Em nó hỏi, vừa đúng lúc cái lò nướng vi ba kêu beng một tiếng.
- Không khá lắm – tụi này đụng phải một lớp sa thạch.
- Tụi này?
Rebecca liếc nó với vẻ thắc mắc khi lấy cái đĩa trong lò ra.
- Em chắc chắn nghe anh vừa nói “tụi này”? Anh đâu có ngụ ý là ba làm việc đó với anh, hả Will? Không phải trong giờ làm việc chứ?
- Không. Chester học chung ở trường giúp tao một tay.
Rebecca vừa đặt đĩa đồ ăn thứ hai vô lò nướng, và suýt tí nữa là kẹt ngón tay khi đóng cửa lò nướng.
- Nghĩa là quả thực anh có nhờ người khác phụ việc? Chà, mới nghe lần đầu à. Tưởng anh không tin tưởng nổi ai để chia sẻ mấy cái “dự án” chứ?
- Không. Thường thì tao không tin ai hết, nhưng Chester là đứa chơi được.
Will nói, hơi cảnh giác với vẻ hứng thú của em nó.
- Nó được việc lắm.
- Em không biết nhiều về hắn lắm, ngoại trừ nghe người ta gọi hắn là...
- Tao biết người ta gọi nó là gì.
Will ngắt lời em nó.

Mười hai tuổi, Rebecca nhỏ hơn Will hai tuổi, vậy mà nó khác với anh nó cực kỳ; nó thanh mảnh và xinh xắn so với lứa tuổi, ngược hẳn với thân thể chắc nịch của anh nó.
Với mái tóc đen, màu da sạm, con nhỏ chẳng ngán gì mặt trời, ngay cả giữa mùa hè, trong khi da của Will chỉ mất một phút là bắt đầu đỏ ửng và rát bỏng.
Hai anh em nhà nó hoàn toàn khác hẳn nhau, không chỉ bề ngoài mà cả tính tình. Cuộc sống trong nhà có cái gì đó như một thỏa hiệp không thoải mái lắm, người này chỉ tỏ ra quan tâm chiếu lệ niềm đam mê người kia đeo đuổi.
Cũng không hề có những buổi gia đình cùng nhau đi nghỉ hè hay đi chơi dã ngoại mà người ta thường mong đợi, bởi vì ông bà Burrows cũng hoàn toàn khác biệt nhau về sở thích. Will chịu đi theo ba nó làm những chuyến thám hiểm - một địa điểm quen thuộc là bờ biển nam, Lyme Regis là chỗ chắc chắn được ưa thích nhất, nơi hai cha con đi săn cổ vật hóa thạch, sục sạo bờ biển để tìm vết tích cập bến mới nhất.
Ngược lại, Rebecca tự thu xếp lấy ngày nghỉ cho mình, thường xuyên một mình đi chơi – ở đâu, làm gì, Will không biết hay không bận tâm. Còn bà Burrows thì cũng có lúc hiếm hoi ra khỏi căn nhà, lúc đó bà lững thững đi quanh các cửa hàng ở khu West End hay đi xem những bộ phim mới nhất.
Tối nay, như hầu hết những buổi tối khác, gia đình Burrows ngồi ăn bữa tối với khay thức ăn để trên đùi của mỗi người và xem một hài kịch của thập niên 1970 chiếu đi chiếu lại mà Tiến sĩ Burrows có vẻ khoái lắm. Không ai nói năng gì trong suốt bữa ăn ngoại trừ bà Burrows có lúc đã lầm bầm:
- Hay... cái này hay.
Câu đó có thể là khen ngợi món ăn hâm trong lò vi ba, hoặc có thể là đoạn kết vở hài kịch cũ rích, nhưng chẳng ai buồn thắc mắc.
Ăn vội vã xong phần của nó, Will rời căn phòng không nói một lời, đặt cái khay vô chậu rửa chén trong nhà bếp, đi như nhảy vọt lên cầu thang, tay nắm chặt một túi vải đựng các thứ vừa mới khám phá. Tiến sĩ Burrows là người tiếp theo rời khỏi căn phòng, đi vô nhà bếp đặt cái khay lên bàn. Mặc dù chưa ăn xong, Rebecca cũng đi theo cha vô nhà bếp.
- Ba à, có hai hóa đơn cần trả tiền. Chi phiếu để trên bàn.
- Còn đủ tiền trong tài khoản không?
Ông hỏi khi ký vội phía dưới chi phiếu, thậm chí chẳng buồn đọc con số tiền.
- Con có nói với ba hồi tuần trước, con kiếm được một mối bảo hiểm nhà khá hơn, tiết kiệm được mấy xu phí bảo hiểm.
- Ừ... giỏi lắm. Cám ơn con.
Tiến sĩ Burrows nói xong, cầm cái khay của mình quay về phía cái máy rửa chén định đi. Rebecca nhanh nhảu nói ngay:
- Ba cứ để nó ở ngoài.
Con nhỏ bước tới với thái độ như muốn bảo vệ cái máy rửa chén. Mới tuần rồi nó đã bắt gặp ba nó đang xài cái lò vi ba yêu dấu của nó bằng cách giận dữ nện loạn xạ lên mấy cái nút, như thể đang cố phá vỡ một mật mã nào đó. Kể từ lúc đó con nhỏ luôn cảnh giác tắt hết các vật dụng thiết bị chính.
Khi tiến sĩ Burrows ra khỏi phòng, Rebecca nhét mấy chi phiếu vào phong bì rồi ngồi xuống để lập ra danh mục những thứ cần mua sắm vào ngày hôm sau. Ở cái tuổi mười hai non nớt, Rebecca là đầu tàu, là tay hòm chìa khóa trong gia đình Burrows. Con nhỏ không chỉ tự đảm nhiệm công việc mua sắm, mà còn lo liệu các bữa ăn, trông coi chỉ bảo người quét dọn nhà cửa, và làm hết tất cả những việc mà trong những gia đình bình thường khác, vốn thuộc về trách nhiệm của cha mẹ.
Nói Rebecca chăm chỉ thì hãy còn đánh giá quá thấp con nhỏ này. Trên tấm bảng ghi nhớ trong nhà bếp có một bảng liệt kê tất cả đồ ăn thức uống mà nó cần trong nửa tháng tới. Nó giữ cẩn thận các tập hồ sơ có dán nhãn về tất cả hóa đơn và tình trạng tài chính trong một ngăn kéo của tủ bếp. Và lần duy nhất việc vận hành suôn sẻ mọi việc trong căn nhà này bị chệch choạc là lúc Rebecca vắng mặt.
Lúc đó ba người còn lại trong nhà, ông bà Burrows và Will, đành cầm hơi bằng đồ ăn mà Rebecca chừa lại cho họ trong ngăn đá của tủ lạnh, tự mình dọn ăn lấy khi muốn, ngấu nghiến như một bầy sói đói. Sau những lần vắng mặt đó, Rebecca chỉ việc trở về nhà, dọn dẹp sắp đặt lại đâu vô đó mà không hề phàn nàn phản đối gì hết, như thể con nhỏ chấp nhận cái số nó trên đời là cứ phải thu vén cho những người khác trong gia đình.
Ở trong phòng khách, bà Burrows bấm lia lịa cái điều khiển tivi để bắt đầu cuộc chạy đua của những vở kịch truyền hình và những chương trình trò chuyện hằng đêm của bà trong khi Rebecca bắt đầu lau dọn nhà bếp. Lúc chín giờ, con nhỏ làm xong hết việc nhà, bèn ngồi xuống bên cái bàn, một nửa mặt bàn bày la liệt những cái bình cà phê rỗng mà tiến sĩ Burrows cứ hứa hẹn hoài là sẽ làm gì đó với chúng, để làm hết bài tập của nó.
Sau đó, quyết định là đã tới giờ đi ngủ, con nhỏ lựa một xấp khăn tắm sạch kẹp dưới nách đi lên cầu thang. Đi ngang qua buồng tắm, con nhỏ dừng chân khi tình cờ liếc vô. Will đang quỳ gối trên sàn chiêm ngưỡng những thứ nó mới tìm được và đang dùng bàn chải đánh răng của tiến sĩ Burrows để chải sạch đất cát bám mấy món đồ đó.
- Coi nè!
Will đầy vẻ tự hào khi giơ lên một cái túi nhỏ làm bằng da mục đang nhểu nước dơ tùm lum. Nó tiếp tục tháo mở hết sức nhẹ nhàng cái miệng túi mỏng manh và lấy ra một loạt ống bằng gốm.
- Người ta thường chỉ tìm thấy từng miếng lẻ... những miếng mà nông dân đánh rơi. Nhưng thử nhìn mấy cái này coi. Chẳng có cái nào bể. Nguyên vẹn y như lúc chúng mới được làm ra... thử nghĩ coi... suốt bao nhiêu năm qua... từ thế kỷ thứ mười tám...
- Dễ thương đấy.
Rebecca nói, không tỏ ra chút xíu hứng thú nào. Hất khẽ mái tóc một cách hơi kênh kiệu, con nhỏ tiếp tục băng ngang qua hành lang để tới cái tủ thoáng để cất khăn tắm, rồi trở về phòng mình, đóng chặt cửa lại.
RODERICK GORDON & BRIAN WILLIAMS


0 nhận xét:

Đăng nhận xét