Home » » Âm phủ - kỳ 8

Âm phủ - kỳ 8

Will thở dài, quay lại xem xét tiếp những phát hiện của nó thêm một lúc nữa, rồi gom chúng lại trong một tấm thảm chùi chân và cẩn thận rinh chúng về phòng ngủ của nó.
Ở đó nó thận trọng sắp xếp mấy cái ống và cái túi da còn sũng nước bên cạnh nhiều báu vật khác trên mấy cái kệ kê chiếm hết một bức tường của phòng ngủ – nó gọi đó là viện bảo tàng của nó.
Phòng ngủ của Will nằm ở phần phía sau căn nhà. Và lúc đó chắc là khoảng hai giờ sáng khi có một tiếng động đánh thức nó. Tiếng động đó vang lên từ ngoài vườn. Mắt nó vừa mở ra là nó đã xác định được âm thanh. Nó nói:
- Tiếng xe cút kít? Một xe cút kít chở nặng?
Nó lồm cồm ra khỏi giường đi tới bên cửa sổ. Ở đó, nhờ ánh sáng vầng trăng khuyết, nó thấy bóng một người đang đẩy xe cút kít trên lối mòn. Nó mở to mắt, cố gắng nhìn cho rõ.
- Ba!
Nó kêu thầm khi nhận ra dáng dấp đặc biệt của cha nó và thấy ánh trăng phản chiếu trên gọng kính quen thuộc của cha nó.
Không hiểu ất giáp gì cả, Will quan sát cha nó đi tới cuối vườn, chui qua lỗ trống của hàng giậu, đi ra công viên. Tới đó, một số cây che khuất tầm nhìn của Will. Nó lẩm nhẩm một mình:
- Ba đang làm gì?
Tiến sĩ Burrows thường có giờ giấc kỳ hoặc vì ông thường xuyên đánh giấc trong viện bảo tàng, nhưng lao động vào giờ này thì hơi hăng hái bất thường.
Will nhớ lại, cách đây vài năm, nó đã giúp cha nó đào đất, hạ thấp nền của tầng hầm thêm gần một mét, rồi đúc một lớp sàn bê tông mới để tăng thêm chiều cao căn phòng dưới đó. Sau đó, khoảng một tháng hơn, tiến sĩ nảy ra một sáng kiến chói lọi là đào một lối thoát từ tầng hầm ra đến khu vườn và lắp đặt một cánh cửa mới, thì chẳng biết lý do gì, ông quyết định là ông cần một cách thức khác để vào chốn ở ẩn của ông dưới đáy căn nhà. Theo như Will biết, công việc ở dưới đó đã xong rồi, nhưng về cha nó thì không thể nói trước điều gì cả.
Will cảm thấy nhói lên một nỗi giận hờn xót xa – điều cha nó đang làm đêm nay có nghĩa là ông quá ư kín đáo, mà tại sao ông không bảo Will giúp một tay chứ?
Vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn và đầu óc còn vương vấn những dự án ngầm của chính mình, Will tạm thời gạt dấu hỏi về cha nó ra khỏi đầu và quay trở về giường ngủ tiếp.
Chương sáu
Sau giờ học ngày hôm sau, Will và Chester lại tiếp tục công việc đào bới. Will đang quay lại sau khi đổ đất xong, xe cút kít của nó chất ngất nghểu mấy cái xô rỗng khi nó hối hả đẩy về đường hầm chỗ Chester đang đục đẽo lớp đá.
Will hỏi Chester:
- Sao rồi?
- Chắc chắn là không dễ hơn chút nào hết!
Chester đáp, lau mồ hôi trên trán bằng ống tay áo dơ hầy và do vậy quẹt đất tèm lem khuôn mặt nó.
- Khoan, để tao coi qua một cái. Mày nghỉ giải lao đi.
- Ừ.
Will rọi ngọn đèn soi gắn trên mũ cối của nó vào bề mặt vách đá, vằn vện những vệt màu nâu và vàng huyền ảo của vỉa đá bị mũi cuốc chim đục ngẫu nhiên, rồi nó thở ra thành tiếng.
- Tao thấy tụi mình nên ngừng lại để suy nghĩ về chuyện này một chút. Cứ dộng đầu vô một bức tường bằng sa thạch thì chẳng được tích sự gì! Uống miếng nước cái đã!
- Ừ, đề nghị hay đấy.
Chester mừng rỡ tán thành.
Hai đứa quay lại gian phòng chính, Will đưa cho Chester một chai nước. Nó nói với Chester lúc đó đang nhìn lơ đễnh khoảng không trước mặt.
- Mày chịu làm tiếp vụ này tao mừng lắm. Dễ ghiền hén?
Chester quay nhìn Will đáp:
- Ờ, thật ra thì cũng chẳng biết đúng hay không. Tao đã nói là tao sẽ giúp mày đục đá, nhưng sau đó tao không chắc lắm. Hồi hôm cánh tay tao nhức kinh khủng.
- Ối, mày sẽ quen thôi, với lại, mày có tài bẩm sinh.
Chester cười rạng rỡ:
- Thật không? Mày thấy vậy hả?
- Chắc chắn. Mai mốt mày sẽ giỏi gần bằng tao.
Chester đùa giỡn véo cánh tay nó và cả hai đứa cùng cười vang, nhưng tiếng cười của tụi nó xìu xuống khi nét mặt của Will trở nên nghiêm trang.
Chester hỏi:
- Gì vậy?
- Chúng ta sẽ phải tính toán lại việc này. Vân đá này có lẽ quá dầy, tụi mình không thể đục thủng được.
Will nhíu mày lại, ngón tay đan nhau trên đỉnh đầu, một động tác nhiễm từ cha nó.
- Mày thấy sao nếu mình... đào vòng xuống phía dưới nó?
- Phía dưới hả? Mình có buộc phải xuống quá sâu không?
- Không, trước đây tao từng xuống sâu hơn nữa.
- Hồi nào?
Will nói lảng:
- Có hai đường hầm của tao ăn xuống sâu hơn cả cái này. Nếu mình đào vòng xuống phía dưới, tụi mình có thể dùng được tảng sa thạch này, mày hiểu không, vì nó là một lớp đá nguyên chắc chắn, mình có thể dùng nó làm nóc một đường hầm mới. Có khi cũng không cần tới trụ chống nào hết.
Chester hỏi lại:
- Không cần trụ chống hả?
- An toàn tuyệt đối.
- Nếu không thì sao? Nếu nó sập xuống lúc mình ở dưới hầm thì sao?
Chester tỏ ra không hồ hởi lắm trước viễn cảnh đó.
- Mày lo lắng thái quá. Thôi, tụi mình làm tiếp đi!
Will đã quyết định rồi và đi luôn xuống đường hầm. Chester gọi với theo:
- Ê, mắc gì tụi mình phải đào cụp xương sống hả...? Ý tao nói, kế hoạch này có mục tiêu gì không? Để làm gì hả?
Will khựng lại vì câu hỏi đó, mấy giây sau nó mới trả lời. Nó nhìn nhận:
- Không, chẳng có gì ghi trên bản đồ Địa hình của ban Quân nhu hay bản đồ lưu trữ của ba tao.
Nó hít một hơi thật sâu rồi quay lại nói với Chester:
- Đào là để đào thôi.
Chester hỏi lại ngay:
- Vậy mày có cho là có cái gì đó bị vùi chôn ở dưới? Như mấy thứ moi ra từ những hố rác cũ mà mày nói đó?
Will lắc đầu:
- Không. Dĩ nhiên tìm được cái gì thì tuyệt quá. Nhưng việc này quan trọng hơn.
Nó quơ quơ tay trước mặt một cách quái gở.
- Việc gì?
- Tất cả việc này!
Will đảo mắt khắp các vách hầm đến nóc hầm trên đầu tụi nó.
- Không cảm thấy hả? Mỗi một nhát cuốc xuống, có cảm giác như thể tụi mình đang du hành ngược thời gian.
Nó ngừng lại, mỉm cười với chính mình:
- Về nơi chưa ai từng đến trong nhiều thế kỷ... có khi chưa bao giờ đến từ trước đến giờ.
Chester hỏi:
- Vậy là mày không biết có cái gì ở đó?
Will cương quyết nói:
- Đương nhiên không. Nhưng tao sẽ không để cho một miếng sa thạch nào đánh bại tao.
Chester cảm thấy bối rối kinh khủng.
- Chẳng qua... tao nghĩ, nếu tụi mình không nhắm tới một mục tiêu cụ thể, thì sao tụi mình không xoay qua đào một đường hầm khác?
Will lại lắc đầu, nhưng không thèm giải thích nữa.
- Nhưng như vậy sẽ dễ hơn nhiều.
Chester nói, giọng bắt đầu cáu như thể nó đã biết là đừng hòng có được câu trả lời hợp lý của Will.
- Tại sao không làm vậy chứ?
- Linh cảm.
Will nói sẵng, rồi đi xuống đường hầm trước khi Chester kịp thốt thêm một lời nào nữa. Chester nhún vai, cầm cây cuốc chim lên.
- Nó khùng. Mà mình cũng khùng thầy chạy luôn. Mình làm cái khỉ gì ở đây chứ?
Nó làu bàu với chính mình.
- Lẽ ra ở nhà... lúc này... chơi game... khô ráo và ấm áp.
Nó ngó xuống bộ đồ lấm đầy sình, tự lặp lại nhiều lần:
- Khùng thầy chạy.

Ngày của tiến sĩ Burrows vẫn luôn như mọi ngày. Ông đang ngồi dựa lưng một cách sang trọng trên cái ghế nha sĩ với tờ báo còn gấp lại đặt trên đùi, sắp sửa thả mình vào giấc ngủ sau bữa ăn dằn bụng, thì cánh cửa viện bảo tàng mở ra.
Joe Carruthers, nguyên thiếu tá lực lượng Kỵ binh của Nữ hoàng, cắm cúi đi vào, rảo mắt nhìn quanh phòng cho đến khi thấy tiến sĩ Burrows, cái đầu của tiến sĩ đang lừ thừ gục gặc trên cái ghế nha sĩ.
- Sẵn sàng, Burrows!
Ông rống lên, gần như khoái trá trước phản ứng bật đầu dậy của tiến sĩ Burrows. Ông Joe Carruthers là cựu chiến binh thời Đệ nhị Thế chiến, không bao giờ đánh mất tác phong nhà binh, hay thói lỗ mãng. Tiến sĩ Burrows đã tặng cho ông một hỗn danh không được hay lắm là “Joe Khóm” xuất phát từ cái mũi phồng và đỏ một cách gây chú ý – có thể là hậu quả của một vết thương chiến tranh, hay như tiến sĩ Burrows đôi khi tự biện giải, nhưng rất có thể, là do số lượng khổng lồ rượu gin mà ông ta đã tiêu thụ. Ở tuổi bảy mươi mấy, ông ta vẫn hoạt bát một cách đáng ngạc nhiên và có thiên hướng sủa ồn ào. Lúc này tiến sĩ chẳng muốn gặp ông chút xíu nào.
- Lên yên, Burrows, cần ông đến dọn cái này cho tôi, nếu ông rảnh được một phút? Mà chắc là rảnh, thấy ông đâu có làm gì ở đây, đúng không nào?
Tiến sĩ Burrows bất đắc dĩ dứt ra một xíu giấc mơ màng, đáp nhừa nhựa:
- Ồ, không, xin lỗi ông Carruthers, tôi không thể nào bỏ mặc viện bảo tàng không người trông coi. Xét cho cùng, tôi đang làm nhiệm vụ.
Từ đầu kia sảnh chính, ông Joe Carruthers tiếp tục rống:
- Thôi đi cha, đây là một nhiệm vụ đặc biệt, ông hiểu không? Cần ý kiến của ông. Con gái tôi và thằng chồng mới vừa mua một căn nhà phía cuối đường High. Vừa cho sửa xong cái nhà bếp thì tụi nó tìm được một cái... cái gì đó ngộ lắm.
Tiến sĩ Burrows hỏi, vẫn còn quạu vì bị phá giấc ngủ:
- Ngộ như thế nào?
- Một cái lỗ ngộ lắm trên sàn.
- Cái đó thì kêu mấy người thợ xây mà giải quyết.
- Không phải chuyện đó, ông già ơi. Không phải loại chuyện xây sửa nhà.
Tiến sĩ Burrows bắt đầu thấy tò mò.
- Sao?
- Tốt hơn là ông tự đi khảo sát lấy, ông già à. Tôi thấy ông là người biết hết lịch sử vùng này. Tôi nghĩ tới ông ngay. Tôi nói với con gái Penny của tôi, ông rành việc này nhất. Tôi nói với nó, tay này thật sự biết chuyên môn.
Tiến sĩ Burrows hơi ngây ngất với ý tưởng ông là chuyên gia về lịch sử địa phương, vì vậy ông đứng lên, ra vẻ trịnh trọng mặc áo khoác vào. Khóa cửa viện bảo tàng xong, ông sóng bước bên cạnh ông Joe Khóm, ráng theo kịp bước chân lính diễu hành dọc con đường High, rồi quẹo vô đường Jekyll. Ông Joe Khóm chỉ phát biểu thêm một lần, khi cả hai quẹo qua một góc đường khác, để vào Quảng trường Martineau.
- Mấy con chó mắc dịch – người ta lẽ ra không được thả chúng chạy rong như vậy.
Ngó thấy mấy tờ giấy bị gió thổi bay ngang qua đường ở đằng xa, ông càm ràm:
- Lẽ ra phải xích chó lại.
Sau đó cả hai đi tới một ngôi nhà. Nhà số 23 là một ngôi nhà có nền cao, không khác gì tất cả những ngôi nhà tiếp nối nhau giáp bốn cạnh của quảng trường, được xây bằng gạch, với nét đặc trưng của kiến trúc Georgie thời đầu. Mặc dù mỗi căn nhà hơi hẹp với một thẻo vườn bé tẹo ở phía sau, Tiến sĩ Burrows vẫn ngưỡng mộ chúng mỗi lần có dịp tình cờ đi ngang khu vực này, ông vui vẻ nhân cơ hội này nhìn vào nội thất một căn.
Ông Joe Khóm dộng lên cánh cửa đời George ghép bằng bốn tấm ván nguyên bằng một sức mạnh có thể xuyên thủng cánh cửa, mỗi lần dộng khiến mặt tiến sĩ Burrows nhăn lại một cái. Một phụ nữ trẻ mở cửa, gương mặt cô ta nhẹ nhàng hẳn ra khi nhận ra cha mình.
- Ôi ba. Vậy là ba mời được ông ấy.
Cô ta quay sang tiến sĩ Burrows nở nụ cười e dè.
- Mời đi thẳng xuống nhà bếp. Hơi bừa bộn, nhưng tôi sẽ pha trà ngay.
Cô vừa nói vừa đóng cánh cửa lại.
Tiến sĩ Burrows đi theo ông Joe Khóm dẫm bước trên đám bụi bặm trong hành lang, nơi giấy dán tường được lột xuống dở dang.
Khi đã vào trong nhà bếp, cô con gái của ông Joe Khóm quay sang nói với tiến sĩ Burrows:
- Xin lỗi, tôi hơi vô phép chưa tự giới thiệu. Tên tôi là Penny Hanson – Tôi nhớ chúng ta đã từng gặp nhau.
Cô ta nhấn mạnh cái họ mới lấy theo họ chồng một cách hãnh diện. Trong một thoáng lúng túng, tiến sĩ Burrows có vẻ hoàn toàn mù tịt về ngụ ý của nữ chủ nhân, khiến cô ta đỏ mặt ngượng nghịu, nên vội lắp bắp mấy tiếng gì đó rồi đi pha trà.
Trong khi đó, tiến sĩ Burrows, tỉnh bơ trước sự quê độ của nữ chủ nhân, bắt đầu xem xét căn phòng. Nó đã bị cạo gỡ các lớp vữa để lộ ra lớp gạch bên trong, dọc theo một bức tường đã gắn một cái chậu rửa chén mới toanh với cái tủ chén vừa làm xong một nửa.
Cô Penny chỉ lên bức tường đối diện với bức tường đã gắn chậu và tủ, nói:
- Chúng tôi tính gỡ bỏ cái khung lò sưởi, để làm cái quầy ăn điểm tâm ở chỗ đó. Kiến trúc sư nói là chúng tôi chỉ cần một thanh giằng trên trần.
Cô ta chỉ một cái lỗ mà Tiến sĩ Burrows có thể thấy một cái dầm nhà mới bằng kim loại đã được gắn vào.
- Nhưng khi những người thợ xây đục ra lớp gạch cũ, thì bức tường phía sau lò sưởi sụp xuống và họ tìm thấy cái này. Tôi đã gọi cho kiến trúc sư, nhưng ông ấy chưa gọi lại cho tôi.
Phía sau bệ lò sưởi là một đống gạch bám đầy bồ hóng xác định vị trí của bụng lò sưởi trước đó. Bức tường sụp xuống để lộ một chỗ khá rộng ở phía sau, cỡ cái buồng của cha xưng tội trong nhà thờ.
RODERICK GORDON & BRIAN WILLIAMS

0 nhận xét:

Đăng nhận xét