Cái mặt mà Cindi Broaddus nhìn thấy trong gương méo mó và đầy thẹo. Bà biết rằng mình sẽ không bao giờ được trở lại bình thường.
Thế nhưng điều quan trọng là khuôn mặt bị hủy hoại bởi chất acid sulfuric, do một tên vô danh nào đó đi ngang qua và ném vào xe của bà một buổi sáng tháng 6 năm 2001, hiện ra trong kính đó, thuộc về một người được sống sót.Sau lần thoát chết đó và sau khi đã trải qua bảy lần giải phẫu để ghép da, Cindi can đảm chấp nhận sự tàn phá của nhan sắc và bà không để cho bề ngoài đó làm bà đau khổ.
Thế nhưng điều quan trọng là khuôn mặt bị hủy hoại bởi chất acid sulfuric, do một tên vô danh nào đó đi ngang qua và ném vào xe của bà một buổi sáng tháng 6 năm 2001, hiện ra trong kính đó, thuộc về một người được sống sót.Sau lần thoát chết đó và sau khi đã trải qua bảy lần giải phẫu để ghép da, Cindi can đảm chấp nhận sự tàn phá của nhan sắc và bà không để cho bề ngoài đó làm bà đau khổ.
Cindi Broaddus là một người mẹ độc thân có ba đứa con gái đã trưởng thành: Angela, Shelli và Brandi. Bà chưa bao giờ được hưởng những ngày đi xa đâu cả trong những lần nghỉ phép trước kia vì phải làm việc thật cực nhọc để nuôi con. Cindi đã làm không biết bao nhiêu nghề khác nhau để dành dụm tiền hầu có thể giúp đỡ con cái khi chúng cần đến. Bốn mẹ con bà đã cùng nhau trải qua những buồn vui của cuộc sống nên rất gắn bó và gần gũi.
Thế rồi, một người đàn ông tên Jim Maxwell xuất hiện trong cuộc đời Cindi và làm bà trở nên yêu đời . Buổi sáng sớm hôm mùng 5 tháng 6 năm 2001, Jim lái xe chở Cindi từ nhà của bà ở Duncan, Oklahoma City đi đến phi trường Will Rogers World lúc 2 giờ 30 sáng, họ hớn hở nghĩ đến chuyến bay đi nghỉ mát ở San Diego, California. Ðường xa lộ tối đen như mực và trong lúc Cindi đang nhắm mắt ngủ thì bỗng nhiên không biết từ đâu, một hũ acid sulfuric được ném tới, đập vỡ cái kiếng xe phía trước và dung dịch acid văng tung tóe, bao phủ cả thân thể của Cindi.
Cindi kể lại rằng bà không hề nghe tiếng động của chiếc hũ đang bay đến, cũng như không hề nghe nó rơi xuống. Nhưng cũng nhờ nhắm mắt nên bà đã không bị mù vì acid bắn vào mắt. Thoạt đầu, bà không hề có cảm giác gì cả và nghĩ rằng mình chỉ có chết mà thôi. Thế nhưng, Cindi vẫn còn sống vì bà thấy mình la hét một cách điên cuồng khi acid bắt đầu đốt cháy da khiến bà đau đớn.
Chất acid cũng văng tới Jim và làm phỏng tay phần bên phải của thân thể ông, nhưng Jim vẫn tiếp tục lái xe cho đến khi gặp được một cửa hàng bên đường và kêu cầu cứu.
Trong khi xe cứu thương chở họ đến phòng cấp cứu của Intergris Baptist Medical Center in Oklahoma City cách đó 20 dặm, Cindi chỉ biết cầu nguyện sao cho bà được sống sót để trở về với các con. Tại bệnh viện, một người y tá đắp khăn ướt trên mặt bà và nói: “Bà bị phỏng vì chất hóa học. Thế nhưng bà đang ở tại một bệnh viện tốt nhất tiểu bang và chúng tôi sẽ săn sóc bà.” Cindi thì thào hỏi xem mấy đứa con gái của bà có đến không và được cho biết là họ đã được gọi báo tin.
Thế rồi, chỉ vài phút sau đó, bà nghe một vài tiếng động và có tiếng hơi thở quen thuộc ở gần mặt mình. Cindi biết ngay đó là tiếng thở của Brandi, đứa con gái út 22 tuổi vui tươi và năng động của bà. Vừa thấy mẹ, Brandi òa khóc và nói: “Thượng Ðế ơi, con không thể nào sống không có mẹ của con!”
Cindi kể lại là những người trong gia đình bà hay ôm nhau để bày tỏ lòng thương yêu và sự hỗ trợ hay chia sẻ. Bởi vì họ tin tưởng rằng có một sức mạnh chữa lành trong sự đụng chạm giữa con người với nhau. Lúc đó Cindi chỉ muốn được ôm con vào lòng nhưng bà không thể cử động được vì quá đau.
Ngày hôm ấy, người y tá đặt Cindy ngồi trên một chiếc ghế bằng kim loại và nhúng người bà vào trong một bể nước. Cô ta chà rửa thân hình bà để bóc đi lớp da bị phỏng. Tuy cô ấy cố làm một cách nhẹ nhàng, Cindi vẫn cảm thấy đau đớn và bật khóc. Bà năn nỉ cô y tá ngừng tay lại tuy biết rằng họ phải rửa sạch tất cả các giọt acid trên người, nếu không nó sẽ tiếp tục đốt cháy bà. Cindi bị phỏng ở cấp độ số ba và những người y tá bôi thuốc mỡ (ointment) và quấn nhiều lớp băng cho bà. Họ cũng phải giúp bà giảm đau bằng cách truyền thuốc morphine.
Nguyên cả thân hình Cindy bị sưng lên, nhất là ở mặt. Thế nhưng qua khe hở rất nhỏ của con mắt, Cindy nhìn thấy một khuôn mặt kề sát mặt bà và đó là khuôn mặt thân yêu của Brandi. Bà mấp máy môi nói: “Mẹ nhìn thấy con và thương con”. Brandi cũng nói: “Con cũng thương mẹ lắm, mom”.
Mặc dù bác sĩ cho biết là Cindi bị phỏng đến 69% nhưng họ hy vọng bà có thể được chữa trị và vượt qua khỏi cái chết. Cindi đã hít vào phổi mùi acid nhưng điều đó không nguy hại đến nỗi phải đặt bà vào phòng hồi sinh ICU. Tất cả mọi người phải chờ một vài ngày để biết xem là mức độ phỏng của bà thật sự ở tình trạng nào. Trong thời gian đó, Cindi quyết định là bà chỉ chú tâm suy nghĩ đến việc làm sao để sống còn mà thôi. Bà không nghĩ gì khác ngoài sự sống và các con của bà, vì họ cần có nhau.
Thế rồi, căn phòng của Cindi bắt đầu tràn ngập hoa do bạn bè, đồng nghiệp, người quen gởi đến với những lời chúc lành bệnh. Trong số đó, đặc biệt có một bó hoa hồng vàng thật to của Dr. Phil McGraw, nhà tâm lý học nổi tiếng và là chồng của người em bà Cindy tên là Robin.
Chuyên viên điều tra tội phạm của Oklahoma State Bureau of Investigation là Dale Sparks cũng đến nhà thương để phỏng vấn Cindi hầu ghi nhận những tin tức trong việc tìm kiếm thủ phạm đã ném chai acid ấy. Ông ta hỏi là Cindi có tình nghi ông chồng cũ của bà làm việc này hay không? Bà có kẻ thù không? Có ai biết bà sẽ đi ra phi trường bằng xa lộ đó hay không?
Cindi nói rằng bà rất kinh ngạc khi biết cảnh sát mở cuộc điều tra. Bà nói với ông Dale là bà tin chắc ông chồng cũ của bà không bao giờ làm việc đó vì họ ly dị đã khá lâu. Cindi cũng không nghĩ rằng một kẻ nào có thể ghét bà đến nỗi gây ra tội ác đó. Khi ông Dale dùng chữ “nạn nhân” (victims) để gọi bà và ông Jim, Cindi phản ứng ngay. Bà nói bà là một người “phấn đấu” (fighter) chứ không phải là nạn nhân (victim)
Khi mọi người đều cho rằng cái kẻ ném chai acid ấy là một kẻ tàn ác và dã man thì Cindi không đồng ý. Bà không muốn nghĩ như thế vì điều ấy chỉ làm cho bà sống trong sự giận dữ, thù ghét và như vậy chỉ làm hại cho việc hồi phục của bà. Trái lại, Cindi cho rằng kẻ gây chuyện này chắc là một người cô đơn, chán đời và thất bại. Một người như thế thì hoàn toàn khác hẳn với Cindi, là một người không bao giờ đầu hàng nghịch cảnh. Và bà sẽ chứng minh điều đó bằng sự phấn đấu để sống còn.
Cindi đã trải qua 18 ngày ở bệnh viện. Với 15 cuộc giải phẫu để cấy ghép da ở mí mắt, má, cắm, cổ, tay, ngực và chân. Bác sĩ đã phải dùng đến 400 cái kim bấm để giữ những mảnh da lại với nhau.
Thuốc chống đau morphine giúp giảm những cơn đau và Cindi bắt đầu được chữa trị bằng vật lý trị liệu. Những vết thương của bà có vẻ lành lặn nhanh chóng và vào ngày thứ 17, khi bà bắt đầu có thể dùng cái walker - nạng có bánh xe để di chuyển - Cindi được bác sĩ cho biết là bà có thể về nhà vào ngày hôm sau và sẽ chỉ dùng thuốc morphine khi cần thiết mà thôi.
Cindi mất đi 15 pounds, rất yếu và người bà cứng như một miếng gỗ vì vẫn còn được băng bó như xác chết Hy Lạp. Thế nhưng, bà quyết định bắt đầu đời sống của bà lại ngay tức khắc.
Ba cô con gái đến đón mẹ trong một chiếc xe chất đầy hoa và khi về gần đến nhà, bà Cindi bắt đầu cảm thấy xúc động. Những người hàng xóm chạy đến vì thấy xe ngừng lại trước cửa nhà bà. Họ vỗ tay hoan hô khi bà chậm chạp chui ra khỏi xe, như đang chào đón một ngôi sao màn bạc. Nước mắt của Cindi trào ra khóe mắt. Bà dựa vào cái walker để bước vào nhà và trông thấy ông Jim tươi cười đứng đón. Jim đã được xuất viện trước bà bốn ngày vì vết phỏng của ông nhẹ hơn bà rất nhiều. Còn Steven, con rể của bà thì đang cầm máy quay phim. Cindi cũng lần đầu tiên thấy mặt thằng cháu ngoại mới sinh tên Carson đang được mẹ nó bế đứng gần con chị bốn tuổi tên Kennedy.
Thế rồi, Cindi nhận ra là sàn nhà được lót những miếng gạch mới. Thì ra, trong khi bà ở bệnh viện, mấy đứa con gái đã tân trang căn nhà của bà lại. Ba cô con gái ríu rít bảo mẹ đi thăm căn phòng ngủ được lót thảm mới. Cái nhà bếp cũng được thay bằng một cái mặt countertop và bồn rửa chén mới.
Cindi nói rằng bà cảm thấy như đó là một bữa tiệc sinh nhật của bà, mừng bà được tái sinh lại. Tất cả mọi người đều ăn mừng vì bà còn sống, chứ không phải đau khổ và thù hận vì sự xấu xa, thương tích hay bạo lực đã xảy ra cho bà.
Ba tuần sau khi trở về nhà, Cindi xin trở lại làm việc bán thời gian. Người ta nhòm ngó, chỉ trỏ nhưng Cindi cứ tỉnh bơ bởi vì bà chỉ thấy một điều quan trọng là bà còn được sống. Bà may mắn còn ở cạnh các con và có thể bế những đứa cháu ngoại của bà.
Trong thời gian chờ đợi để được hoàn toàn hồi phục, Cindi nguyện với lòng mình là sẽ biến cái hành động bạo lực làm thay đổi đời bà, trở thành một hành động của tình thương.
Sau khi Dr. Phil đem câu chuyện của bà lên màn ảnh truyền hình. Vào Mùa Hè năm 2002, Cindi bắt đầu được mời đi diễn thuyết cho nhiều đoàn thể khác nhau, từ trường học, bệnh viện cho đến những tổ chức tư nhân và công cộng. Khi xuất hiện trước đám đông, thường Cindi không chuẩn bị bài diễn văn mà trái lại ứng khẩu, vì bà nghĩ những gì xuất phát từ trái tim của bà sẽ làm cho người nghe dễ cảm nhận hơn.
Cindi cho biết là một trong những bài diễn văn đầu tiên của bà bao gồm quyết định không để cho bất cứ ai gây tổn thương bà lần thứ hai. Bà Cindi đã tuyên bố: “Tôi biết rằng mỗi buổi sáng thức dậy tôi đều có thể cảm thấy chua xót và giận dữ, thế nhưng tôi đã chọn lựa thức dậy và mỉm cười vì nỗi vui sướng còn được sống để thấy mặt mấy đứa con xinh đẹp của tôi”.
Cindi Broaddus không chỉ dừng lại ở quyết định cho mình mà còn nghĩ đến người khác khi theo đuổi một cuộc vận động nhằm đệ trình một dự luật ở quốc hội tiểu bang Oklahoma. Cho dù người ta không tìm ra kẻ làm hại bà và hồ sơ của bà đã bị đóng vào tháng 7 năm 2004 vì đã đến thời hạn 3 năm, dự luật này đã được Thượng Viện Oklahoma thông qua và trở thành đạo luật. Nó xếp vào tội đại hình và phạt tới 10 năm tù giam cho bất cứ người nào có hành động vứt bất cứ một đồ vật gì qua cầu, hay vào người đi ngang qua, nhằm gây thương tích. Quốc Hội Oklahoma đặt tên cho đạo luật đó là “The Cindi Broaddus Act”.
Cindi Broaddus không bao giờ ngờ là bà đã đi từ tầng lầu thứ ba của bệnh viện chữa trị phỏng để đến tòa nhà lập pháp với sự thành công trong việc cứu giúp các nạn nhận khác và trừng trị những kẻ tàn ác một cách đích đáng.
Reader's Digest
Thế rồi, một người đàn ông tên Jim Maxwell xuất hiện trong cuộc đời Cindi và làm bà trở nên yêu đời . Buổi sáng sớm hôm mùng 5 tháng 6 năm 2001, Jim lái xe chở Cindi từ nhà của bà ở Duncan, Oklahoma City đi đến phi trường Will Rogers World lúc 2 giờ 30 sáng, họ hớn hở nghĩ đến chuyến bay đi nghỉ mát ở San Diego, California. Ðường xa lộ tối đen như mực và trong lúc Cindi đang nhắm mắt ngủ thì bỗng nhiên không biết từ đâu, một hũ acid sulfuric được ném tới, đập vỡ cái kiếng xe phía trước và dung dịch acid văng tung tóe, bao phủ cả thân thể của Cindi.
Cindi kể lại rằng bà không hề nghe tiếng động của chiếc hũ đang bay đến, cũng như không hề nghe nó rơi xuống. Nhưng cũng nhờ nhắm mắt nên bà đã không bị mù vì acid bắn vào mắt. Thoạt đầu, bà không hề có cảm giác gì cả và nghĩ rằng mình chỉ có chết mà thôi. Thế nhưng, Cindi vẫn còn sống vì bà thấy mình la hét một cách điên cuồng khi acid bắt đầu đốt cháy da khiến bà đau đớn.
Chất acid cũng văng tới Jim và làm phỏng tay phần bên phải của thân thể ông, nhưng Jim vẫn tiếp tục lái xe cho đến khi gặp được một cửa hàng bên đường và kêu cầu cứu.
Trong khi xe cứu thương chở họ đến phòng cấp cứu của Intergris Baptist Medical Center in Oklahoma City cách đó 20 dặm, Cindi chỉ biết cầu nguyện sao cho bà được sống sót để trở về với các con. Tại bệnh viện, một người y tá đắp khăn ướt trên mặt bà và nói: “Bà bị phỏng vì chất hóa học. Thế nhưng bà đang ở tại một bệnh viện tốt nhất tiểu bang và chúng tôi sẽ săn sóc bà.” Cindi thì thào hỏi xem mấy đứa con gái của bà có đến không và được cho biết là họ đã được gọi báo tin.
Thế rồi, chỉ vài phút sau đó, bà nghe một vài tiếng động và có tiếng hơi thở quen thuộc ở gần mặt mình. Cindi biết ngay đó là tiếng thở của Brandi, đứa con gái út 22 tuổi vui tươi và năng động của bà. Vừa thấy mẹ, Brandi òa khóc và nói: “Thượng Ðế ơi, con không thể nào sống không có mẹ của con!”
Cindi kể lại là những người trong gia đình bà hay ôm nhau để bày tỏ lòng thương yêu và sự hỗ trợ hay chia sẻ. Bởi vì họ tin tưởng rằng có một sức mạnh chữa lành trong sự đụng chạm giữa con người với nhau. Lúc đó Cindi chỉ muốn được ôm con vào lòng nhưng bà không thể cử động được vì quá đau.
Ngày hôm ấy, người y tá đặt Cindy ngồi trên một chiếc ghế bằng kim loại và nhúng người bà vào trong một bể nước. Cô ta chà rửa thân hình bà để bóc đi lớp da bị phỏng. Tuy cô ấy cố làm một cách nhẹ nhàng, Cindi vẫn cảm thấy đau đớn và bật khóc. Bà năn nỉ cô y tá ngừng tay lại tuy biết rằng họ phải rửa sạch tất cả các giọt acid trên người, nếu không nó sẽ tiếp tục đốt cháy bà. Cindi bị phỏng ở cấp độ số ba và những người y tá bôi thuốc mỡ (ointment) và quấn nhiều lớp băng cho bà. Họ cũng phải giúp bà giảm đau bằng cách truyền thuốc morphine.
Nguyên cả thân hình Cindy bị sưng lên, nhất là ở mặt. Thế nhưng qua khe hở rất nhỏ của con mắt, Cindy nhìn thấy một khuôn mặt kề sát mặt bà và đó là khuôn mặt thân yêu của Brandi. Bà mấp máy môi nói: “Mẹ nhìn thấy con và thương con”. Brandi cũng nói: “Con cũng thương mẹ lắm, mom”.
Mặc dù bác sĩ cho biết là Cindi bị phỏng đến 69% nhưng họ hy vọng bà có thể được chữa trị và vượt qua khỏi cái chết. Cindi đã hít vào phổi mùi acid nhưng điều đó không nguy hại đến nỗi phải đặt bà vào phòng hồi sinh ICU. Tất cả mọi người phải chờ một vài ngày để biết xem là mức độ phỏng của bà thật sự ở tình trạng nào. Trong thời gian đó, Cindi quyết định là bà chỉ chú tâm suy nghĩ đến việc làm sao để sống còn mà thôi. Bà không nghĩ gì khác ngoài sự sống và các con của bà, vì họ cần có nhau.
Thế rồi, căn phòng của Cindi bắt đầu tràn ngập hoa do bạn bè, đồng nghiệp, người quen gởi đến với những lời chúc lành bệnh. Trong số đó, đặc biệt có một bó hoa hồng vàng thật to của Dr. Phil McGraw, nhà tâm lý học nổi tiếng và là chồng của người em bà Cindy tên là Robin.
Chuyên viên điều tra tội phạm của Oklahoma State Bureau of Investigation là Dale Sparks cũng đến nhà thương để phỏng vấn Cindi hầu ghi nhận những tin tức trong việc tìm kiếm thủ phạm đã ném chai acid ấy. Ông ta hỏi là Cindi có tình nghi ông chồng cũ của bà làm việc này hay không? Bà có kẻ thù không? Có ai biết bà sẽ đi ra phi trường bằng xa lộ đó hay không?
Cindi nói rằng bà rất kinh ngạc khi biết cảnh sát mở cuộc điều tra. Bà nói với ông Dale là bà tin chắc ông chồng cũ của bà không bao giờ làm việc đó vì họ ly dị đã khá lâu. Cindi cũng không nghĩ rằng một kẻ nào có thể ghét bà đến nỗi gây ra tội ác đó. Khi ông Dale dùng chữ “nạn nhân” (victims) để gọi bà và ông Jim, Cindi phản ứng ngay. Bà nói bà là một người “phấn đấu” (fighter) chứ không phải là nạn nhân (victim)
Khi mọi người đều cho rằng cái kẻ ném chai acid ấy là một kẻ tàn ác và dã man thì Cindi không đồng ý. Bà không muốn nghĩ như thế vì điều ấy chỉ làm cho bà sống trong sự giận dữ, thù ghét và như vậy chỉ làm hại cho việc hồi phục của bà. Trái lại, Cindi cho rằng kẻ gây chuyện này chắc là một người cô đơn, chán đời và thất bại. Một người như thế thì hoàn toàn khác hẳn với Cindi, là một người không bao giờ đầu hàng nghịch cảnh. Và bà sẽ chứng minh điều đó bằng sự phấn đấu để sống còn.
Cindi đã trải qua 18 ngày ở bệnh viện. Với 15 cuộc giải phẫu để cấy ghép da ở mí mắt, má, cắm, cổ, tay, ngực và chân. Bác sĩ đã phải dùng đến 400 cái kim bấm để giữ những mảnh da lại với nhau.
Thuốc chống đau morphine giúp giảm những cơn đau và Cindi bắt đầu được chữa trị bằng vật lý trị liệu. Những vết thương của bà có vẻ lành lặn nhanh chóng và vào ngày thứ 17, khi bà bắt đầu có thể dùng cái walker - nạng có bánh xe để di chuyển - Cindi được bác sĩ cho biết là bà có thể về nhà vào ngày hôm sau và sẽ chỉ dùng thuốc morphine khi cần thiết mà thôi.
Cindi mất đi 15 pounds, rất yếu và người bà cứng như một miếng gỗ vì vẫn còn được băng bó như xác chết Hy Lạp. Thế nhưng, bà quyết định bắt đầu đời sống của bà lại ngay tức khắc.
Ba cô con gái đến đón mẹ trong một chiếc xe chất đầy hoa và khi về gần đến nhà, bà Cindi bắt đầu cảm thấy xúc động. Những người hàng xóm chạy đến vì thấy xe ngừng lại trước cửa nhà bà. Họ vỗ tay hoan hô khi bà chậm chạp chui ra khỏi xe, như đang chào đón một ngôi sao màn bạc. Nước mắt của Cindi trào ra khóe mắt. Bà dựa vào cái walker để bước vào nhà và trông thấy ông Jim tươi cười đứng đón. Jim đã được xuất viện trước bà bốn ngày vì vết phỏng của ông nhẹ hơn bà rất nhiều. Còn Steven, con rể của bà thì đang cầm máy quay phim. Cindi cũng lần đầu tiên thấy mặt thằng cháu ngoại mới sinh tên Carson đang được mẹ nó bế đứng gần con chị bốn tuổi tên Kennedy.
Thế rồi, Cindi nhận ra là sàn nhà được lót những miếng gạch mới. Thì ra, trong khi bà ở bệnh viện, mấy đứa con gái đã tân trang căn nhà của bà lại. Ba cô con gái ríu rít bảo mẹ đi thăm căn phòng ngủ được lót thảm mới. Cái nhà bếp cũng được thay bằng một cái mặt countertop và bồn rửa chén mới.
Cindi nói rằng bà cảm thấy như đó là một bữa tiệc sinh nhật của bà, mừng bà được tái sinh lại. Tất cả mọi người đều ăn mừng vì bà còn sống, chứ không phải đau khổ và thù hận vì sự xấu xa, thương tích hay bạo lực đã xảy ra cho bà.
Ba tuần sau khi trở về nhà, Cindi xin trở lại làm việc bán thời gian. Người ta nhòm ngó, chỉ trỏ nhưng Cindi cứ tỉnh bơ bởi vì bà chỉ thấy một điều quan trọng là bà còn được sống. Bà may mắn còn ở cạnh các con và có thể bế những đứa cháu ngoại của bà.
Trong thời gian chờ đợi để được hoàn toàn hồi phục, Cindi nguyện với lòng mình là sẽ biến cái hành động bạo lực làm thay đổi đời bà, trở thành một hành động của tình thương.
Sau khi Dr. Phil đem câu chuyện của bà lên màn ảnh truyền hình. Vào Mùa Hè năm 2002, Cindi bắt đầu được mời đi diễn thuyết cho nhiều đoàn thể khác nhau, từ trường học, bệnh viện cho đến những tổ chức tư nhân và công cộng. Khi xuất hiện trước đám đông, thường Cindi không chuẩn bị bài diễn văn mà trái lại ứng khẩu, vì bà nghĩ những gì xuất phát từ trái tim của bà sẽ làm cho người nghe dễ cảm nhận hơn.
Cindi cho biết là một trong những bài diễn văn đầu tiên của bà bao gồm quyết định không để cho bất cứ ai gây tổn thương bà lần thứ hai. Bà Cindi đã tuyên bố: “Tôi biết rằng mỗi buổi sáng thức dậy tôi đều có thể cảm thấy chua xót và giận dữ, thế nhưng tôi đã chọn lựa thức dậy và mỉm cười vì nỗi vui sướng còn được sống để thấy mặt mấy đứa con xinh đẹp của tôi”.
Cindi Broaddus không chỉ dừng lại ở quyết định cho mình mà còn nghĩ đến người khác khi theo đuổi một cuộc vận động nhằm đệ trình một dự luật ở quốc hội tiểu bang Oklahoma. Cho dù người ta không tìm ra kẻ làm hại bà và hồ sơ của bà đã bị đóng vào tháng 7 năm 2004 vì đã đến thời hạn 3 năm, dự luật này đã được Thượng Viện Oklahoma thông qua và trở thành đạo luật. Nó xếp vào tội đại hình và phạt tới 10 năm tù giam cho bất cứ người nào có hành động vứt bất cứ một đồ vật gì qua cầu, hay vào người đi ngang qua, nhằm gây thương tích. Quốc Hội Oklahoma đặt tên cho đạo luật đó là “The Cindi Broaddus Act”.
Cindi Broaddus không bao giờ ngờ là bà đã đi từ tầng lầu thứ ba của bệnh viện chữa trị phỏng để đến tòa nhà lập pháp với sự thành công trong việc cứu giúp các nạn nhận khác và trừng trị những kẻ tàn ác một cách đích đáng.
Reader's Digest
0 nhận xét:
Đăng nhận xét