Hiển thị các bài đăng có nhãn Như cánh chuồn chuồn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Như cánh chuồn chuồn. Hiển thị tất cả bài đăng

Phần 07: Bốn năm với trường trung học thủ khoa nghĩa

Một sáng chủ nhật mưa dầm tháng 9 năm1952, tôi đang ngồi chồm hổm ngoài chợ ăn tô cháo phổi heo của chị Cà, thì được kêu về chuẩn bị lên xe. Tôi ngồi mệt mỏi nhức đầu trên hàng hóa ngỗn ngang. Xe nghiêng ngã di chuyển chậm chạp trên đường lồi lõm ngập nước.
Từ Xà Tón ra Châu Đốc, 42 cây số xe đi mất khoảng ba tiếng đồng hồ. Nước kinh cầu Cây Me đục ngầu, chợ Cây Me xơ xác, vườn chuối trên núi Nam Vi xanh lạnh ngắt, thung lũng cầu Tà Đét khe nước sâu thăm thẳm. Xe chậm chạp, thỉnh thoảng ngừng rước khách, qua những rặng núi Dài, núi Bà Đội Om, núi Cấm, núi Két, đường nghiêng, bỏ lại sau cái thế giới bình yên đầm ấm ra ngoài đô thị bon chen. Đúng tâm trạng trong bài học thuộc lòng:
Thương con thân gái đi xa
Mới lần thứ  nhứt con ra thị thành
Còn bở ngở chưa lanh chưa thuộc
Lại ngây thơ, đường bước chưa quen
Đêm xa nhà đầu tiên, cô đơn trên ghế bố lạ chỗ lạ người. Cùng ở trọ với tôi có cậu Xén cùng quê lúc đang học Đệ Tứ và thằng Cường con Sal con chủ nhà.
Sáng hôm sau đang lúi húi rửa mặt, thấy bác Hai Khá chủ nhà nhìn tôi không nói một lời, ông người mập trắng.
Sáng đó bác Hai Khá đưa tôi lên Sở Giáo huấn tại trường nữ, ghi tên vào lớp thầy Dương Văn Mậu, lớp nhì B, học chung với Cường, học nhằm buổi chiều từ 2 giờ đến 6 giờ, buổi sáng nghỉ. Học được hai ngày, ngày thứ tư tôi định cuốn gói về quê, bị cô ba Tên (bà chủ nhà) la, tôi xép re, mang đồ trở vô. Đêm đêm, quả là nước mắt ướt đầm ghế bố.
Lâu lắm, cả năm sau mới quen dần nếp sống thị thành, đèn điện, nước máy, cầu tiêu thùng sau nhà, không cần ra đầu bờ kinh sợ sệt đám phú-lít  biên phạt.
Cứ mỗi thứ năm, ông già tôi mặc quần lãnh đen, áo trắng ba túi, nút thắt, xách giỏ thịt hay con gà và trưa đó dẫn tôi đi ăn tiệm ngoài chợ. Ổng sợ tôi thiếu ăn, đền bù bằng những buổi cơm gà, cơm tôm, bún bì và uống nước đá chanh ở tiệm cà-phê ở tiệm Thái Bình, nghe mấy người phổ-ky kêu đồ ăn như hát.
Tiền cơm mỗi tháng là hai trăm đồng bạc, tiền túi ba bữa mười đồng. Sức đang lớn ăn sao đủ no. Cứ vài tuần về quê, thế nào tôi cũng mang theo vài chục tiền túi. Lên mâm cơm, ăn coi nồi, ngồi coi hướng, thức ăn có giới hạn, dọn trên dĩa tô kiểu trắng (nhà tôi ăn tô chén sành mà thức ăn dư thừa) một dĩa rau càng cua, một trứng vịt luộc xắt lát trải trên mặt, chấm nước mắm chanh, tô canh cá, dĩa đồ mặn, lay hoay đã hết, ăn xong chừng một giờ sau thấy đói. Còn nhớ loáng thoáng, gói hủ tiếu hấp có bì chan nước mắm chanh giá hai đồng bạc, bản nhạc năm đồng, bằng giá hủ tiếu.
Bác Hai Khá, ngạch giáo viên, một vợ hai con lương hơn năm ngàn (tương đương một ngàn tô hủ tiếu thời 1952). Giáo viên cao nhứt thời đó, tốt nghiệp École normal hay Diplôme, Brevet (tương đương lớp 10 ngày nay) sống rất thoải mái. Nhiều công chức có hai vợ, hai dòng con, có người làm, có phố. Ông Một (thiếu uý) duy nhứt, ở cái villa. Ngạch thấp nhất như thầy Chón ở quê tôi, sang tiệm sách đi dạy (nhờ có bằng Certificat d’Étude Primaire) lương nuôi một vợ ba con, đứa lớn lên Nam Vang học, vợ không động móng tay, áo quần trắng trơn. Chiều chiều các thầy mặc pyjama sạch sẽ thảnh thơi đi uống cà-phê, tiệc tùng ăn trên ngồi trước, con cái học giỏi dang nề nếp.
Trở lại lớp nhì B Châu Đốc, lớp gồm chừng 50 học sinh, số đăng bộ của tôi là 486/52. Ngày nay nhớ tên chừng 25 đứa. Lúc học lớp Ba ở quê, chỉ có ám đọc mới phải học thuộc lòng, trả bài. Trường tỉnh học sinh phải học thuộc lòng tất cả các môn, lại thêm môn chính tả không “đánh phép” được. Tôi chưa chuẩn bị tinh thần để học bài đêm.
Ngán nhứt là những bài récitation (ám đọc bằng tiếng Pháp). Thầy Mậu đánh đúng năm roi đứa nào không thuộc bài. Thầy đang giảng bài hứng thú trôi chảy, lâu lâu tôi làm thầy mất hứng. Có lần thầy giảng bài “Le corps humian” (Thân thể người ta). Thầy say sưa giảng “les cinq doigts de la main sont..” (năm ngón tay của bàn tay là…) rồi chỉ tôi. Tôi ấm ớ đang ngủ gục nên bị năm roi. Lần khác, những bội số của mètre là…, thầy lại chỉ tôi, tôi lãnh năm roi gọn hơ.
Tuổi tác học sinh cùng lớp không đồng đều như ngày nay, học trường công lớn nhỏ gì cũng bắt đầu bằng lớp năm. Trong lớp có trò Sự, trưởng lớp. Khoảng gần nửa niên khóa, bọn tôi đang ngồi trong lớp chợt có một bác nông dân bước vào, trịnh trọng đặt nải chuối cau lên bàn, tháo khăn quấn đầu, chào thầy xin cho trò Sự nghỉ học. Thầy ngạc nhiên hỏi lý do.
- Dạ, vú nó biểu về cưới vợ mần ăn.
Mười mấy năm sau, đi đò trên kinh Tri Tôn, tình cờ gặp hắn ngồi trên thành cầu số 5 vẫy tay chào, cười hiền khô. 
Cuối năm, thằng Lý Hoàn Khải lãnh thưởng hạng nhứt (sau là cán sự Bưu điện), Trương Thành To hạng nhì (sau là Tổng Giám thị Trung học Đức Thành – Sa Đéc), Nguyễn Trung Cường hạng Ba (Giảng sư Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn). Tôi hạng hai mươi, được lên lớp Nhứt khỏi thi, mừng húm, về quê khoe cái tiếng “học lớp Nhứt”.
Cám ơn thầy Dương Văn Mậu, gốc Núi Sam, nhờ thầy huấn luyện cho con quen với nề nếp học đường mới. Thầy nghiêm nghị, ít cười, nhưng không nghiêm khắc, giơ cao đánh khẽ, thầy sống rất mẫu mực, tư cách hoàn toàn nhà giáo, không chê thầy được điểm nào trong trường cũng như ngoài xã hội. Thầy mất khoảng năm 1986.
Mùa hè năm đó, tôi học thêm khoá hè với thầy Nguyễn Văn Ưa, tiền trường 200 đồng, hết nhớ nhà và không thích về quê. Học cho có học, khó thâu thập được gì, đêm đêm tùng tam tụ ngũ chờ xe hàng xuống củ sắn, hè nhau ôm củ lớn chạy đem trình đàn anh trong xóm để nhập bọn xin làm đàn em.
Đầu năm học 1953-54, bác Hai Khá lại viết bức thư giới thiệu gởi con bác là Cường và tôi vào lớp thầy Châu Văn Tính, lớp nhứt E. Cấp lớp nhứt lúc đó có 7 lớp. Lớp A thầy Hỷ, lớp D thầy Phương, lớp G thầy Mô.
Thầy Tính và thầy Phương dạy hay nổi tiếng Châu Đốc. Lớp nhứt học hai buổi, sau giờ học chiều, hai thầy ở lại dạy thêm cho học trò mình, nên năm nào học trò hai thầy đậu nhiều vào Đệ Thất. Thầy Tính hiền lành, ít khi đánh, quá lắm như thằng Huỳnh Bửu Lý thầy cũng đánh vài roi nhẹ cho có lệ. Thầy hay rầy tôi: “Đã dặn ngáp thì che miệng lại, mà nó cứ hả miệng hoài. Bộ ban đêm mày đi ăn trộm không ngủ sao?” 
Mùa hè năm 1954, hoa phượng nở đỏ núi Sam, bị ảnh hưởng văn chương về hoa phượng, lòng thấy man mác, lo âu, bồi hồi ngày chia tay, ai cũng thuộc bài ám đọc:
Mùa hoa phượng là mùa thi cử
Chúc các em hai chữ khoa danh
Bãi trường, Nguyễn Văn Huynh hạng nhứt, Võ Văn Hiền hạng nhì, Lê Văn Khải hạng ba, Huỳnh Văn Khuê hạng tư, Nguyễn Trung Cường hạng năm.
Bọn học sinh lớp Nhứt và lớp Tiếp Liên lo học ôn bài vở Cách trí, Sử ký, có những địa danh mãi đến nay chưa đến lần nào “Cái Bần, Cát Bàn, Uông Bí, Phủ Nho Quan, Nông Sơn…”, các cửa sông như “cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, Cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu…”. Học như két mà nay còn nhớ.
Bọn tôi làm đơn xin thi Tiểu Học, đơn thi viết tay trên mẫu giấy lớn. Vài ngày trước khi thi, rủ nhau đi xem phòng và chỗ mình sẽ ngồi thi để hôm vào thi đỡ bỡ ngỡ. Số ký danh tôi, vần N. là 707, số gánh, số hên.
Phụ huynh và học sinh từ các quận lớn như Tân Châu, Cái Dầu đổ về tỉnh dự thi khoảng trên một ngàn thí sinh.
Hôm đầu thi Toán, cô giáo Nho (ở cách nhà bác Hai Khá một căn) và cô giáo vợ thầy Phương gác phòng tôi. Bác Hai Khá đi qua, nhìn tôi, rồi đưa miếng giấy nhỏ cho cô Nho, cô xem xong xé bỏ, bây giờ hiểu là số báo danh tôi.
Hai bài toán chép trên bảng đen, tôi đọc và hiểu, chưa biết bắt đầu, còn lúng túng, thì ông đốc Thân bước vào chỉ câu hỏi và nói “Đây là cái bẫy nghe!”. Hai cô giáo không hiểu, làm sao bọn học sinh hiểu? Bài toán đố về đào đất đắp nền nhà. Câu hỏi sau khi đắp nền, nền cao hơn mặt đất bao nhiêu? Câu trả lời là 0m70, cách mặt đất từ lúc chưa đào, nếu đào rồi sẽ cộng thêm 0,05m. Cô Nho làm bài toán, rồi mang cho tôi chép. Cô sợ quá, tôi chưa bắt kịp ý cô, cô nhắc “chép lẹ đi mầy”. Tôi luống cuống vì không biết nên chép vào giấy nháp hay ngay vào giấy thi. Mặt cô Nho căng thẳng. Có tiếng la từ ngoài vòng rào “bảy tấc nghe!”, chắc có chùi đề thi ra ngoài.
Phụ huynh bên ngoài ồn ào. Ông Thanh tra Huỳnh Sanh mặt đỏ gay, ra cảnh cáo phụ huynh, giọng nói rất gay gắt: “Mấy người mà! Muốn tôi cho tụi nó thi lại hết hôn?”. Không khí lắng dịu hơn. Tôi làm được thêm nửa bài toán sau. Kế là bài Dictée Francaise và Analyse và Grammaticale, nếu đậu sẽ có thêm bằng Tiểu học Pháp.
Cô Nho nhắc lại tôi, có lúc cô mất kiên nhẫn, cú đầu tôi “quỷ chùa”.
Cám ơn cô Nho, nếu không có cô giúp, chưa chắc con đậu, lại phải thi kỳ 2. Lúc này mới thấy cảm thông và thương cô. Việc đổ bể, cô sẽ bị khiển trách và ảnh hưởng đến việc thăng thưởng ngạch trật của cô. Tinh thần cô lúc đó căng thẳng đến độ nào, bây giờ tôi mới biết.
Hôm sau cô Trạnh và cô Sáu Vẹn gác giờ Luận văn và Chánh tả. Cô Sáu Vẹn hiền lành, gọi học trò là “con” dịu ngọt, con cô Sáu Vẹn chị Mỹ Hạnh, hoa hậu An Giang (gồm Long Xuyên, Châu Đốc). Chị Mỹ Hạnh sau là vợ của thầy Nguyễn Thùy, hiện giờ ở Pháp. Cô Trạnh, trẻ, cao, mảnh mai, đẹp thanh thoát cao sang, giọng đọc rõ ràng thảnh thót: “Tuổi thanh niên là tuổi hoa xuân mới nở, là vừng đông mới mọc, là ngọn suối mới sa, đẹp đẽ biết chừng nào…”. Cô Trạnh đọc trước, cô Sáu Vẹn đọc lại, cố sửa giọng đọc chính xác cho thí sinh viết. Thỉnh thoảng cô Trạnh ngừng lại, viết chữ “d” trên bảng rồi bôi đi để nhắc chữ “dằng dặc”. Cô Trạnh thật là “hoa xuân mới nở, là vừng đông mới mọc…”. Rồi thi các câu hỏi về các môn khác. Cuối cùng là “Oral” (hạch miệng, vấn đáp). Học sinh học bài thuộc lòng hoặc hát một bài đã được chép sẵn trong vở mang vào trình cho giám khảo trước khi đọc.
Độ mười ngày sau, Châu Đốc rộn lên, quán ăn đắt khách lần nữa nhờ học sinh và phụ huynh các quận phụ cận tề tựu về nghe kết quả. Ông Huỳnh Sanh, Thanh tra, mở đầu: “Hôm nay là ngày, tuyên, bố, kết, quả, kỳ, thi, Tiểu, học”, ông nói từng tiếng một. Tôi ngồi chồm hổm trong đám đông, giám khảo thay nhau đọc danh sách trúng tuyển. Tiếng reo mừng kế tiếp nhau, mặt cha mẹ hể hả, hay gầm gừ: “Tao đã dặn rồi, dấu chấm khác dấu phết…”. Thầy Phương đọc số ký danh 707 và tên tôi.
Qua ải đầu, hoa phượng nở đỏ đê mê, về quê tha hồ vênh váo với bạn bè cũ, rửa sạch cái tên “N, hối lộ”.
Đậu xong Tiểu học lại lo làm đơn thi tuyển vào Đệ Thất (lớp 6 ngày nay). Lần này tương đối ít thí sinh hơn vì một số đã rớt, nhưng thêm thí sinh gốc lớp Tiếp Liên (đã đậu Tiểu Học nhưng rớt vào Đệ Thất).
Tôi làm đúng hai bài toán, ông bà độ, câu trả lời là 25 phút và 70m. Bài toán về nước chảy vô hồ, nước chảy ra gì đó, khi nào đầy. Hôm cuối cùng, ông Hiệu trưởng Tài, người Bắc, vào lớp dặn: “Các “chò”, thứ tư tuần sau, đến nghe tuyên bố kết quả”.
Về quê, trở ra nghe kết quả, bác Hai Khá tiết lộ, “Mầy có đường đậu à!”. Bác Hai rất ít lời, chỉ nói một vài tiếng. Có lần tôi trốn học, ổng nói “Thằng quỷ, hôm qua mầy trốn nghe, chết tổ mầy ạ!”, vậy thôi.
Trung học Châu Đốc tuyển 150 học, ba lớp Đệ Thất, sau lấy thêm 50 học sinh dự khuyết. Số học sinh dự thi khoảng một ngàn, số ký danh tôi là 565, cũng số gánh.
Hôm nghe kết quả, gần đứng bóng, tôi cũng ngồi chồm hổm trên sân trường mới đang cất dở dang, nghe tên mình hạng 97, tôi bật dậy chạy về. Hạng nhứt là chị Trần Thị Sáu (nay giáo viên hồi hưu ở Long Xuyên), hạng nhì chị Trác Thị Lý (cũng giáo viên hồi hưu), hạng 3 chị Lài, hạng 4 Nguyễn Văn Quyền lớp tôi, hạng 12 Võ Văn Hiền, hạng 16 Hồ Văn Vinh.
Về quê, nhiều người khen giỏi, ông già sợ tôi kiêu ngạo, nhăn mặt trừng trừng: “Mầy không giỏi đâu, giỏi là tao giỏi nè!”. Sau đó bà già tôi nó thiệt:”Một ngàn đồng nghe!”.  Năm tháng tiền cơm chứ  ít ỏi gì, chiếc xe đạp năm 1955 là 550 đồng, món xa xỉ phẩm như đồng hồ Wyler 820 đồng. Nhờ lo tiền mới đậu, mắc cỡ quá, tôi mất tự tin luôn.
Niên khoá 1954-55, Trung học có bốn lớp Đệ Thất, ba lớp đệ Lục, hai lớp Đệ Ngũ và một lớp Đệ Tứ. Lớp 7A (Thất A) gồm toàn nữ sinh, lớp 7B nam sinh giỏi, 7C trung bình, 7D đậu vớt.
Ngày khai trường (học sinh 7C và 7D còn mượn cơ sở trường Nam tiểu học). Kéo qua trường trung học mới cất dở, sắp hàng chào cờ, không khí thật nghiêm trang, im phăng phắc. Tân hiệu trưởng là ông Ngô Văn Dư, Tổng giám thị là ông Thái Văn Thân. 
Đầu tiên Trường Trung học tỉnh Châu Đốc có tên “Collège de Châu Đốc” năm thành lập là 1948 hoặc trước đó, vì năm 1952-1953 đã có lớp Đệ tứ (lớp 9)
Năm 1950 đổi tên thành Trung học Châu Đốc.
Năm 1954 đổi tên thành Trung học Thủ Khoa Nghĩa, đến nay vẫn còn tên này.
Để khỏi lẫn lộn, tôi xin ghi tên cấp lớp tương đương ngày nay.
Tên cấp lớp theo thời gian:
Trước 1950                           Sau 1950                               Sau 1971
Tiểu học:
 - Cours Enfantin                   Lớp Năm                                  Lớp 1
 - Cours Préparatoire              Lớp Tư                                     Lớp 2
 - Cours Élémentaire              Lớp Ba                                      Lớp 3
 - Cours Moyen un                  Lớp Nhì                                    Lớp 4
 - Cours Moyen deux                                                        
- Cours Supérieur                  Lớp Nhứt                         Lớp 5
  Trung học:
 - Premiere Année                    Đệ Thất                                    Lớp 6
 - Deuxième Année                  Đệ Lục                                     Lớp 7
 - Troisième Année                  Đệ Ngũ                                     Lớp 8
 - Quatrieme Année                 Đệ Tứ                                        Lớp 9
 - Seconde                               Đệ Tam                                    Lớp 10
 - Premiere                              Đệ Nhị                                      Lớp 11
 - Terminale                            Đệ Nhứt                                   Lớp 12
Năm 1952, việc đổi tên cấp lớp đã gây luống cuống. Lớp Premier Année đổi thành Đệ Thất hay 7ème. Trước đếm từ lớp Năm đến lớp Nhứt, sau đếm ngược từ lớp 7 (Đệ Thất). Rồi sau 1970, lại đổi theo hệ thống Mỹ, lớp Năm (năm đầu Tiểu học) thành lớp 5 (năm cuối Tiểu học). Lộn xộn quá!
Châu Đốc là một trong những tỉnh có Trung học sau cùng, so với các tỉnh kỳ cựu như Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long.
Hiệu trưởng đầu tiên là ông Phạm Ngọc Đa, nhà ở xóm đường Hàng Sáo, tu theo phái Thông Thiên Học qua Ấn Độ với nhóm nhà thuốc Võ Văn Vân, thỉnh được cây Bồ Đề con của cây Bồ Đề chỗ Đức Phật thành đạo. Lúc mang về, Nam Kỳ có 21 tỉnh, tỉnh nào cũng giành trồng, nên bốc thăm, rốt cuộc cây Bồ Đề về tỉnh Châu Đốc, lúc đó khoảng 1949. Cây Bồ Đề được trồng ở Bồ Đề Đạo Tràng, địa điểm gần bến xe ngày nay. Ban đêm, có kẻ chặt lén đứt cây, nên phải đổ sữa săn sóc và rào cây lại. Cây bị chặt sát gốc, mọc lên năm nhánh, ngày nay là cây cổ thụ năm gốc, lá xanh che mát cả khu. Ngôi chùa nhỏ đủ vài người đứng lễ Phật. Thỉnh thoảng ông Đốc Châu Văn Đồng thuyết pháp, một vài nhân sĩ trong tỉnh ngâm thơ đạo vang cả tỉnh. Bồ Đề Đạo Tràng là nơi công viên hóng mát, trẻ con chơi đùa.
Sau ông Đốc Đa là ông Tài, gốc Bắc, tóc hớt court, người gầy. Thời đó là năm cuối trước khi phân chia Nam Bắc. Đường Châu Đốc - Long Xuyên thuộc quân đội cậu Hai Ngón (tướng Lâm Thành Nguyên). Dinh cậu ở huyện Cái Dầu, xe chạy ngang rất cẩn thận, sợ đụng, dù là con chó cũng gây khó khăn. Xe đò phải dừng ở các trạm Phước Thiện để “đóng Phước Thiện”. Tướng Năm Lửa (Trần Văn Soái) dùng thủy phi thoàn xuống Châu Đốc duyệt binh. Bà vợ ông cũng có một đoàn nữ binh và một nữ binh xách giỏ trầu cho bà đi diễu hành trước Nhà Lớn, gần bên Nhà Thương.
Từ niên học 1954 về sau, Trường Trung học Châu Đốc đổi tên thành Trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa, tên một vị quan Nam triều cuối cùng, tác giả Kim Thạch Kỳ Duyên, vở tuồng hát bội nổi tiếng thời đó. Cuộc đời hoạn lộ Ngài Thủ Khoa gian truân, hoàn cảnh gia đình bi đát không kém. Quê cụ Bùi Hữu Nghĩa ở Cần Thơ, làm Tri huyện Trà Vang (Trà Vinh), vì bênh vực dân nghèo không kiêng nể tham quan ô lại Trương Văn Uyển nên bị khép tội tử hình. Vợ là bà Nguyễn Thị Tôn, kiên tâm đáp ghe bầu ra Huế đánh trống kêu oan tại tòa Tam Pháp. Ông được tha tội tử hình, nhưng bị đày đi tiền quân hiệu lực đóng ở Vĩnh Thông, Châu Đốc. Mải lo việc quân, khi nghe tin bà vợ mất trên đường về, không về chôn cất được, có cảnh nào nát lòng hơn? Ông gởi hai câu phúng điếu vợ:
Ngã bần, khanh năng trợ ngã oan khanh năng minh
Triều quận giai xưng khanh thị phụ
Khanh bịnh, ngã bất dược, khanh tử, ngã bất táng
Giang sơn ứng tiếu ngã phi phu
Dịch:
Ta nghèo khanh giúp đỡ, ta bị oan khanh có thề giải oan
Trong triều ngoài quận đều khen khanh đúng là người vợ
Khanh bịnh ta không thang thuốc, khanh mất ta không chôn cất
Núi sông cười ta không đáng mặt làm chồng
Hay quá, đọc xong muốn khóc thét lên cho nỗi oan ức. Khanh đã tròn vẹn đạo làm vợ, tầm thường nhưng chính danh. Ta được tiếng là mãi mê gánh vác giang sơn, giang sơn cười ta là không tròn đạo làm chồng. Hoàn cảnh thật nghiệt ngã.
Suốt bốn năm học, giáo sư  Sử - Địa chưa lần nào nhắc gốc tích cụ Thủ Khoa Nghĩa, về sau đọc sách mới biết. Mỗi sáng chủ nhật đạp xe đạp trên đường Bảo Hộ Thoại vô Núi Sam, chạy nhảy trên những bực đá Lăng Ông mà không biết đó là nơi yên nghỉ của cụ Thoại Ngọc Hầu, người khai kinh Vĩnh Tế. Dưới chân núi, có ngôi Chùa Phật thầy Tây An, dựa lưng vào núi nhìn về núi Hậu Giang.
Tiền Hữu Tam Giang Long Hý Thủy
Hậu Đầu Thất Lĩnh Phụng Triều Vân
Dịch:
Trước mặt ba sông rồng giỡn sóng
Sau lưng bảy núi phụng chầu mây
Ngài đã dẫn dân mở trại ruộng, khu Láng Linh phì nhiêu gập lúa nuôi dân. Đi ngang đình Châu Đốc mấy ai biết vị thần là Chưởng Binh Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, từng xuôi ngược bình định vùng đất mới. Kẻ hậu sinh ăn chút bã Âu học vội quên ơn các vị tiên nhân này sao? (Xa đề!).
Ông Ngô Văn Dư bắt đầu làm Hiệu trưởng năm 1954 thay thế ông Tài, ngay vào năm trường có tên mới. Ông trắng trẻo, dáng thư sinh, luôn luôn mặc bộ veston trắng, tính nghiêm khắc và gay gắt như gương mặt ông. Ông có khả năng ăn nói trước công chúng, không cần viết sẵn trên giấy (điều này hiếm có thời đó) rất được giới nhân sĩ trong tỉnh nể trọng.
Cổng trường vừa mở, học sinh sắp hàng hai, trai gái đứng riêng, ông đứng trong cổng quan sát, quên chào là bị bắt ra đứng bên, sau đó lên phòng Tổng giám thị, tôi chưa bị lên nên không biết chuyện gì xảy ra. Hàng tháng, phát Tableaux d’Honneur (bảng danh dự).
Giám học là ông Đốc Châu Văn Đồng, thường mặc veston xám, ít nói, lúc nói chậm rãi thâm trầm của người có từ tâm, chưa lần nào la hét giận dữ. Tôi nhớ ông dạy Đức dục bài Tình bằng hữu, ông châm rãi, cẩn thận viết chữ “copain” trên bảng, rồi giảng “co” là cùng nhau, pain là “bánh mì”. Ông lên bổng xuống trầm “cùng nhau… bánh mì”. Trong một bài học, ông giảng, mỗi vật đều có phận sự riêng, cây cỏ làm mát mắt người. “Con gà để làm gì?”. Thằng Lê Hoàng Vân xăng xái trả lời: “Gà để rô-ti ăn”. Ngô Vĩnh Lâm trả lời: “Gà để gáy sáng”. Ông bước vụt xuống bục, đi vòng, cười sướng thoả, khen Lâm. Ông Đốc Đồng là nhân sĩ uy tín trong tỉnh.
Surveillant Général, Tổng Giám Thị là ông Đốc Thái Văn Thân, da sạm, tóc hớt court, giọng nói trầm trầm. Lớp bọn tôi la hét phá phách, ông xuống lớp nói nhẹ nhàng, “la hét có khi không giống tiếng người ta”. Học sinh thời đó trưởng thành hơn thời nay, giữ kỷ luật nên ít gây khó khăn cho trường và giáo sư, nhứt là trường công, học sinh tỉnh hãnh diện với trường mình.
================
Người gần học sinh nhứt, ông giám thị kiêm giáo sư Thể dục là ông Nguyễn Văn Giỏi, có tên là ông Non. Ông Non tính rất hiền, tận tụy và tròn thiên chức. Mỗi sáng ông dạy thể thao ở sân vận động. Ông chống nạnh, nghiêng trái, nghiêng phải trước, sau đếm vang trên sân, 1,2,3,4 -2,2,3,4 - 3,2,3,4…
Người ông nở nang, một cầu thủ túc cầu. Sau giờ thể dục, học sinh tập đi đều, nghiêm trang hát bản Nhạc tuổi xanh vang rền, lời nguyên thủy: “Một mùa Thu năm xưa cách mạng tiến ra đất Việt”. Ông đóng góp cuộc đời cho môn thể thao Trung học nhiều thế hệ. Khi ông về hưu, tiếng đếm trên sân cỏ sáng tinh sương, trời vừa mờ tối, văng vẳng đâu đây.
Trường có thêm ba, bốn giám thị khác: Ông Vận, ông Giỏi, ông Sải. Ông Sải lớn người, da đen, dễ nóng, sẵn sàng nạt nộ như người thù thù ghét học sinh từ đời nào.
Tôi chỉ nhớ tên các giáo sư dạy tôi từ Đệ Thất đến Đệ Tứ (1954-58):
Thầy Nguyễn Cửu Phú dạy Anh Văn tôi đầu tiên, thầy nói rổn rảng, nhai trầu, hiền lành, không nặng lời với học sinh. Sau đó là thầy Trịnh Minh Lang, gốc Hoa, giảng bài ưa pha tiếng Pháp. Bắt đầu Đệ Thất, quyển sách Anh Văn duy nhất là quyển L’Anglais Vivant, sixième bleue, nhà xuất bản Hachette, học hai năm. Lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ học cuốn Cinquième, bài về  Christmas, ông ngồi trên bàn nói, tôi nghe thoang thoáng, “Ông già Noel ăn puđing tráng miệng”. Lên Đệ Ngũ thầy Lưu Đức Dần, người Bắc, dạy. Ông có vẻ mệt mỏi, ít nói, nghiêm trang, giảng văn phạm pha tiếng Pháp, “to be, to have” là “verbes auxiliaires”. Lúc đi thi Trung học Đệ nhứt cấp, hai bài thi dịch không dính dáng gì đến hai cuốn sách trên.
Cô Giêng dạy Pháp văn, tính cô hiền nhưng nghiêm nghị. Vào lớp, cô đứng chờ học sinh đứng lên, nhã nhặn: “Cám ơn các em, ngồi!”. Giờ Pháp văn thật khó thở, toàn văn phạm vô bổ, participle present, analyse logique, gramaticle khô khan. Sau đó lên lớp trên bọn tôi với thầy Nguyễn Thế Trung và Trần Cao Luận, gốc Bắc. Đệ Tứ bắt đầu học thơ văn Pháp, luận văn và dịch.
Thầy Lê Hữu Thời dạy Việt Văn, thầy sống nghệ sĩ, vui tánh, năm 1954 mà dám đọc bài bức thư của “Hoàng Hoa Thám gởi cho Cha” (của Tố Hữu) kể ra rất cang cường. Thầy sống rất mẫu mực, tôi ở nhà bác Hai Khá sát bên nhà thầy, cuối tuần thứ bảy chứa bài từ sắc suốt đêm, thầy bưng tô nước trà qua ngồi góp vui câu chuyện nhưng không bao giờ đụng tới cây bài. Thầy nuôi tám người con, năm người cháu đều thành đạt. Gặp thầy ở Caen năm 87, thầy tặng tôi một bài thơ nay còn giữ.  Thầy mãn năm 1989.
Thầy Trần Sung, gốc kỹ sư, dạy đại số hình học. Thầy người cao lớn, hình như một trong những giáo sư cao niên nhứt, còn ảnh hưởng Pháp sâu đậm, mở miệng là “bon”.
Thầy Phan Cao Nhựt, dạy môn gì tôi quên mất, da ngâm ngâm, mặc áo trắng bốn túi, vô cùng gay gắt. Thầy đánh dữ quá, bậm môi, nắm đầu học sinh dộng vô bảng. Mỗi lần thầy bước vào lớp, lớp lạnh tanh, run đùi vì sợ cũng là lý do no đòn.
Thầy Trần Văn Hai, trẻ, mới ra trường, gốc Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, dạy Toán rất hay, lớp tư đông học sinh, có điều thầy hay chửi và khó khăn quá. Thầy có ác cảm với tôi, lý do không rõ, tuy tôi rất trọng thầy, có lẽ vì hai chất hóa học trong người thầy và tôi chống nhau. Tôi sợ thầy như cọp, rất lễ phép, mong thầy nương tay. Tôi học kém, có khi hỏi, bị thầy nạt nên nín khe, thầy không trả lời mà hỏi lại, làm tôi nghẹn luôn. Sau năm 1956, thôi học với thầy tới giờ, những điều thầy dạy không còn lưu lại dấu vết hay ảnh hưởng chút nào sau này. Em xin phép quên ơn thầy, nhứt là câu kết luận sau mỗi bài giảng: “Đứa nào không hiểu ăn ruột chó cùn”.
Ông Đốc Phúc dạy Việt văn, chấm câu bằng tiếng “hả”, dạy Việt văn lớp Thất A. Thầy Hiệu già mặc complet trắng, đội nón cối trắng. Khi về hưu, hết luôn môn Hán văn “huyết hồi tâm, máu về tim”.
Thầy Ngô Vĩnh Nghĩa, tú tài toán, dạy toán từ  Đệ Lục đến Đệ Tứ. Tôi học chậm, các từ ngữ kề bù, đồng dạng... mất căn bản và sợ toán tới giờ. Thầy dạy hay gặp tôi học trò dở tệ, cái số tôi ít bị kêu lên bảng nên yên thân được bốn năm. Ngày nay tôi dở toán và khoa học, lại dính tới hai môn này, quả là nghiệp dĩ. Một số các giáo sư tôi còn nhớ, thầy Lê Hoàng Tánh (Việt văn), thầy Ánh (Sử- Địa), thầy Thuận, thầy Trần Thiện Hiếu (Việt văn), thầy Vũ Hữu Diện (Lý hoá đệ ngũ), cô Đặng Thị Ngọc (Pháp văn), thầy Thi dạy Nhạc, thầy Trần Mạnh Cẩm có tài nhớ nét chữ học trò, vẽ bằng hai tay.
Suốt năm Đệ Thất, tôi lơ mơ chưa tỉnh, học chậm, trong sổ điểm hàng tháng, có khi tôi hạng 51 trong 52 đứa, lay hoay copier bọn nó rồi cũng đủ điểm lên lớp, tôi không mong bảng danh dự, dĩ nhiên  “không cần” lãnh thưởng làm gì. Miễn có tiếng là học sinh Trung Học đủ rồi. Năm đó có bốn lớp Đệ Thất, ba lớp Đệ Lục, hai lớp Đệ Ngũ và một lớp Đệ Tứ.
Năm 1954, tôi quan sát, lúc đó Đệ Tứ khoảng chừng 15 học sinh. Tất cả đều chững chạc, nghiêm trang có tư cách và chăm học. Khi họ nói chuyện hoặc ra sắp hàng chào cờ đều xứng đáng bậc đàn anh, chưa hút thuốc, uống rượu, dĩ nhiên có anh chưa biết uống cà-phê. Hôm lãnh thưởng, anh Chung lãnh nhiều, cầm không hết, phải nhờ chú Xuân lao công bưng dùm cái đồng hồ lớn treo tường. Phần thưởng lớp Đệ Ngũ, Lý Hoàn Minh lãnh cái Radio, chị Lan lãnh cái máy may. Đó là những món rất đắt tiền thời đó, học sinh cả tỉnh ao ước. Mãi đến năm 1957, bác Hai Khá mới mua lại cái Radio cũ cho bọn tôi nghe cải lương và ban kịch Dân Nam.
Thời điểm năm 1954 chỉ có bốn dãy lớp, chừng 16 phòng học, tổng số học sinh chừng trên năm trăm. Tôi nhớ gần hết tên bạn học lớp Đệ Thất C, vì học chung nhau 4 năm, chỉ có vài thay đổi nhỏ. Năm đầu Lâm Ngọc Châu làm Major (Trưởng lớp), Tân làm phó, mỗi lần tới phiên lớp chào cờ, Tân ra đánh nhịp. Năm 1961 gặp lại Lâm Ngọc Châu ở Rạch Giá, hắn đang bán vé xe đò, tôi ăn tô bún xào và uống ly nước ngọt, họ nhất định không chịu lấy tiền, vì tôi là bạn Châu. Oai dữ vậy ta!
Nửa năm đầu chưa có đồng phục, cần mặc áo sơ-mi trắng, mặc quần dài, bỏ áo ra ngoài, mang guốc, đó là tối thiểu. Nửa năm sau, áo trắng, quần tây dài, bỏ áo vô trong, mang giày hay sandale hoặc mặc bà ba trắng, mang sandale hay guốc vông. Tấm hình chụp Đệ Ngũ (1957) không còn thấy đứa nào mặc áo bà ba.
Nữ sinh mặc áo bà ba trắng, mang guốc đen, mang guốc vông, guốc cao gót chưa thịnh hành. Nữ sinh còn kẹp tóc dài, nhưng độ vài năm sau, ít thấy ai để tóc dài. Những mái tóc xoắn thay thế mái tóc dài tha thướt, mộc mạc với gương mặt thật, không điểm phấn tô son.
Buổi sáng dọc theo đường Hàng Sáo, tiếng guốc rộn rã, học sinh tới sớm ăn sáng trước trường, xe bánh mì pâté, cháo đậu, xôi, bên xe nước đá chú Bảy Được.
Insigne (phù hiệu) màu xanh dương, giữa là mặt trời trắng có nhiều tia. Thằng Tòng mang insigne Trung Học, xách ly đi mua cà-phê đá tại Bar Nam Hiệp, lúc trả tiền cho cô Nhung, nó lắc lắc túi trên móc tiền cốt ý cho cái insigne “chớp chớp”, “ta là học sinh Trung Học đây”. Không biết cô Nhung có nể nang gì nó không.
Giáo sư giai đoạn đầu, hầu hết gốc giáo viên Tiểu học lên dạy Trung học. Các vị Đốc học (Hiệu trưởng) thường xuất thân từ trường École Normale (gần Sở Thú ngày nay), cũng có vị có Diplôme hay Brevet (tương đương 9 năm học, nhưng thời đó trình độ cao và thi cử khó khăn hơn ngày nay nhiều). Học École Normale được trả học bổng nội trú, không tốn kém cho cha mẹ:
“Dưa leo chấm với cá kèo
Cha mẹ tôi nghèo, tôi học Normal”
Trình độ Pháp văn đáng bậc học Tú Tài sau này, không hiểu sao bọn tôi được dạy: “Je mange du riz, je bois du l’eau” (Tôi ăn cơm, tôi uống nước), loại tiếng Pháp “bầy tôi” (bồi Tây).
Sau hiệp định Genève năm 1954, cuối năm có một số giáo sư gốc Bắc đổi vào. Các vị này đều có Tú Tài nên dạy các môn chánh như Toán, Lý Hoá, Pháp Văn, không khí học tập thêm hứng khởi. Chiến tranh vừa chấm dứt, phụ huynh nức lòng cho con đi học, trường sở mở rộng thêm, các lớp đêm đông học sinh, tôi cũng đi học, dở toán mà trốn học toán.
Không khí chánh trị thay đổi đâu ở Sàigòn ảnh hưởng đến nếp sống thường nhựt khá nhiều. Trận đánh cuối cùng ở Cái Dầu làm đường Châu Đốc – Long Xuyên gián đoạn mấy ngày. Quân đội cậu Hai Ngoái tan rã, cậu Hai và cậu Ba (Ba Bô) thôi lái xe Cadillac là kỳ quan cho bọn tôi như chiếc xe Xi-gà của tướng cướp Hiệp Liệt trong chuyện Châu Về Hợp Phố đăng trên nhựt báo Thần Chung. Suốt mấy năm liền, mỗi tuần có những cuốn tiểu thuyết mỏng loại định  kỳ, giá một đồng một cuốn, trọn bộ dường như hai chục cuốn. Tiểu thuyết in trên giấy thường như Đảng Đầu Lâu Máu, Kinh Thiên Đại Khách, Hiệp Sĩ Què, Đảng Huỳnh Long… Mỗi tuần mua để dành, sau thành bộ, đọc đi đọc lại. Tôi để dành được tám bộ, mang về quê cất, ông già tôi lại xé từng tờ để gói đinh bán ráo. Tờ nhựt báo mỗi tờ một đồng, giao tận nhà như Tiếng Chuông, Thần Chung…
Ngoài việc học, chúng tôi giải trí tại hai rạp Lạc Thanh và Tân Việt. Rạp Tân Việt cất năm 1956 bên bờ hồ (sau này hồ bị lấp) trên đường Bảo Hộ Thoại. Rạp Lạc Thanh ở đầu chợ, phía trái nếu nhìn từ bờ sông Hậu Giang, chủ người Chà, thường chiếu phim Ấn Độ. Trong Xuôi dòng Cửu Long (tác giả Phạm Thăng) có nhắc tới rạp Tân Kiểng bên hông chợ Châu Đốc (Gạo Chợ, Nước Sông, trang 116). Tôi hỏi tứ tung mà không ai biết, Châu Đốc đâu có rạp Tân Kiểng. Gặp người bạn Vĩnh Long mới biết rạp đó ở Vĩnh Long. Phạm Thăng nhân huynh thương Vĩnh Long hơn Châu Đốc, nên đến Châu Đốc mà lòng còn vương vấn quê mình!
Năm tôi học Đệ Lục cũng có tổ chức cuộc thi ca nhạc toàn tỉnh, tại Nhà Việc. Chị Xinh hạng nhứt, chị người Bắc (không biết tên) hạng nhì, chị Phạm Thị Hiếu hạng ba. Chị Hiếu nổi tiếng văn nghệ của trường, chị là cháu thầy Thời bên cạnh nhà tôi trọ, mỗi buổi trưa nghe chị đưa võng hát ru em, “Kìa ào ào, chiến xa Việt Nam tiến thẳng lên đường”. Dịp này có ba phần thưởng cho học sinh toàn trường. Phần thưởng Trí Dục (học giỏi) về chị Lài, 100 đồng. Phần thưởng Đức Dục (hạnh kiểm) thằng Chung Kinh lớp tôi, 150 đồng. Phần thưởng Thể Dục và Anh Giàu, 200 đồng (tương đương 40 tô hủ tiếu hoặc 240 dollars Úc thời giá bây giờ).
Vừa lãnh phần thưởng Đức Dục xong, lớp thầy Đào Công Kỹ cũng vào giờ Đức Dục, thằng Châu mang cuốn Sept nuits merveilleuses (Bảy đêm khoái lạc) vô lớp, chuyền tay khoe, lúi húi bị thầy Kỹ bắt đem lên xem. Chung Kinh khai sách của Châu với Tổng Giám Thị, ra Hội Đồng Kỷ Luật, Châu lãnh zéro conduite, bị đuổi. Chung Kinh hết lãnh Tableaux d’Honneur (Bảng Danh Dự), từ đó về sau Châu buồn và bỏ học luôn
Năm 1954, học sinh Châu Đốc, Long Xuyên phải xuống Cần Thơ thi Trung học Đệ nhứt cấp. Năm đó tỷ số đậu khá cao, vào trường chuyên môn như Quốc gia Sư phạm, Thương Mại… ra trường là tột đỉnh, lương bổng mỗi tháng mua trên hai lượng vàng. Nhớ chị Ba trọ nhà thầy Rớt, học sau tôi một năm, vừa đậu Tiểu Học (1955) mừng quýnh, về quê sắm áo dài, xin được chân Giảng tập viên, lương khoảng 1.800 đồng, ăn cơm nhà đi dạy khá thảnh thơi. Cá mắm rẻ rề, chưa kể cha mẹ học trò biếu xén mùa nào thức nấy phủ phê, thời đó chưa có nhiều nhu cầu. 
Cũng năm tôi học Đệ Lục, trường đã có Đệ Tam (lớp 10) từ 1955, đáng lẽ nên học thêm Toán, Lý Hóa, tôi sợ hai môn này, chạy trời không khỏi nắng, vì đi thi đó là hai môn chánh. Tôi mải mê mơ mộng viễn vông, mỗi lần giải Toán trong lớp, đầu óc tôi u tối, bây giờ mới biết đó là loại bịnh tâm lý ADS (Attention Deficit Syndrom) không thể tập trung tư tưởng lâu, nói theo đạo là “tâm viên ý mã”. Bị bạn học bỏ xa, tôi buông xuôi tới đâu thì tới, muốn lấy lại căn bản cũng không được, chỉ bám lấy cái hy vọng, nhờ piston của ông già nay, “xải chí” (xài tiền) như kỳ thi vào Đệ Thất. Mãi đến ngày nay vẫn chưa biết giải phương trình bậc 2 và định luật Ohm, điện trở. Mà biết làm gì ba cái đồ ma đó, kêu thợ điện tới là nó ráp cho đầy đủ.
Cuối niên khóa 1958, bốn lớp Đệ tứ A, B, C, D khăn gói xuống An Giang thi Trung học Đệ nhứt cấp. Trung tâm thi đặt ở trường Thoại Ngọc Hầu, cho các trường Châu Đốc, Rạch Giá và Long Xuyên. Xe đò đầy ắp, tiền xe lên giá ngang xương.
Tôi chưa tự tin, chắc sẽ rớt, nhưng còn chút hy vọng hão huyền, nhứt là trông cậy ông già tôi, lần này không phải rẻ như kỳ thi Đệ Thất, mà là mười ngàn, sau đó tăng lên mười lăm ngàn (viết ra sao không biết mắc cỡ?). Bác Hai Khá (lúc đó đã đổi xuống Long Xuyên, vì nhập tỉnh) dặn tôi làm dấu trong các bài thi để giám khảo dễ nhận ra. Ông già tôi quyết đánh trận để đời, ổng tưởng Trung học Đệ nhứt cấp giống như Brevet hay Diplôme ngày trước, làm thầy ký, Cò-mi rồi leo dần lên ngồi quận.
Ngày đầu thi Việt Văn, bình luận bài thơ Vịnh Côn Sơn của cụ Phan Châu Trinh, bài đó tôi chưa học. Toán được nửa bài, Lý Hóa được vài câu. Anh Văn lấy bài trong Cổ Học Tinh Hoa ra dịch và một bài dịch Anh Việt. Pháp Văn còn là sinh ngữ một, bài dịch Pháp Việt (L’heure de repos = Giờ nghỉ ngơi) và bài Rédaction (Luận văn), đề tài viết về một dự định du ngoạn khi nghỉ hè. Đó là dự định thôi, tôi lại tả cuộc nghỉ hè, hors de sujet (lạc đề). Ngặt quá, Pháp văn đâu có học chân truyền, modes và temps chưa vững, làm sao conjuguer verbes ở conditionel passé ? Chế độ thi nghiêm ngặt, Giám thị lớp rất sợ cấp trên, im lặng và căng thẳng. Thầy giáo Khải có hai người con gái thi, đúng ngay phòng ông gác, cũng đành làm ngơ, và ông chưa đủ trình độ nhắc toán Trung học. Qua cửa sổ, thỉnh thoảng thấy ông Phạm Văn Lược, Chánh chủ khảo, đi chầm chậm nhìn vào, đôi mắt nghiêm khắc và cảnh cáo. Thí sinh ít ai dám “đánh phép” như thời nhiễu nhương sau này. Trường hợp thằng Bỉ, nổi tiếng trong Ban Văn nghệ trường vào dịp phát thưởng, thần tượng của các nữ sinh. Bỉ giỏi văn nghệ, có số đào hoa, suốt năm ôm đờn hát những bản nhạc thịnh hành thời đó: “Chiều nay bên làng cũ, cô thôn nữ yêu kiều…”. Tôi nhớ nó ôm đờn, đầu gật gật, lim dim như bị xì-ke hành: “Chim ơi cho ta nhắn đôi lời, một lời mà thôi, về phía xa xôi, thăm người chiến sĩ giùm tôi”. Nó lẫn lộn âm nhạc và toán đại số hình học. Vào giờ thi toán, nó chép bài nhạc Kiếp nghèo (nhạc và lời của Lam Phương), bị cấm thi kỳ hai (lại lạc đề!).
Ngày có kết quả, thí sinh mấy tỉnh, thêm phụ huynh, ngồi âu lo chờ kết quả, rất nhiều phụ huynh gốc nông dân, còn mặc bà ba đen, quấn khăn, đứng bên con cháu mặc âu phục tân thời. Lúc kêu kết quả, có tiếng hét reo mừng, có cô cậu tiu nghỉu đứng dậy ra về, phụ huynh mặc áo xốc xếch theo sau, thằng Múi cùng quê tôi, tên vần M kêu trước. Chết tôi rồi, nó đậu “vớt” vô đệ thất, học lớp D. Cứ đinh ninh tôi giỏi hơn nó, nó đậu rồi, còn tôi thì chưa biết, hồi hộp chờ đợi. Tới vần N, thằng cha Giám khảo đọc sót tên tôi, đi đời. Xách túi áo quần theo ông già đi ra, xe đò đậu dài dài chờ kẻ bần đệ, tụi lơ xe kêu nghe phát ghét: “Lên xe này đi ông bác, cậu hai”. Xe đò ngày đó ưa bỏ tài, chỉ cần rước học sinh thi rớt là đủ xe. Lần đầu nếm mùi thi rớt, còn nữa!
Tôi lủi thủi lên xe. Thi rớt buồn đã đành, trước sau gì tin thằng Múi đậu sẽ tới tai ông già tôi, khốn khổ hơn. Ông sẽ so sánh, chê khen. (Múi hiền lành, đẹp trai, chăm học mà tôi ganh ghét nó mấy năm. Múi vào Quốc gia Sư phạm, đổi về Sa Đéc, có vợ con sống cuộc đời bình thản hạnh phúc, hết bị bầm dập thi cử như tôi).
Thi kỳ hai, tôi bay luôn. Tệ hơn, lúc đầu làm đơn xin vô lớp Đệ Tam, điểm trung bình tôi quá thấp, “dưới moyen”. Chờ đợi từ tuần này sang tuần khác, ông già tôi nổi quạu, thêm ông cậu tôi buôn bán ở Sài Gòn thôi thúc, tôi phải miễn cưỡng rời trường Thủ Khoa Nghĩa, nhớ bạn bè, nhớ trưa tắm Cầu Quan, nhớ sân vận động.
Qua bao nhiêu nhục nhằn, đầu tư tất cả cho cấp bằng công danh của con để nhẹ bớt áp lực của chính quyền, ông già tôi xất bất xang bang vì sự thất bại ê chề của tôi. Cuộc khủng hoảng triền miên đè nặng gia đình đã đành, tin con cháu người khác đỗ đạt càng làm làn sóng khủng hoảng nổi lên cuồn cuộn. Suốt mùa thi, việc buôn bán chỉ có bà già tôi lo, ngưng trệ nhiều. Chú thằng Múi, rít điếu thuốc bao xanh hôi rình, mặt nghiêm trọng: “Thằng Múi cái mặt nó thiệt là buồn à (ý nói mặt không sáng sủa), vậy mà thi một keo được liền”. Mặt chú thằng Múi càng thích thú, mặt ông già tôi càng dài và xám thêm. Ông đi sai sải về nhà đổ thêm dầu lên đống than đang âm ỉ cháy. Ông Kiếm mập, được dịp tỏ ra sành về chuyện thi cử, đem khoe người em gái vợ, “toán nó hay lắm à! Đậu viết kỳ hai”. Khoe ai không khoe, cứ chiều chiều lê lết nhà tôi, mụ vợ đứng bên kia cười te toét. May quá, cô em vợ ông thi rớt oral kỳ hai, cũng như không. Cám ơn! Cám ơn!
Đêm đêm nằm nghe ông già rên rỉ, kiệt sức buông xuôi sau khi tôi rớt kỳ thi Trung học Đệ nhứt cấp cuối cùng năm 61, “Phải nó đậu Trung Học, vô được Sư  Phạm như thầy Định, thầy Chói, tao chết cũng vừa lòng”. Ông già tôi mệt mỏi lắm rồi. Bà già tôi gan góc hơn: “Năm tới đậu à, tao cho đậu”, nói như mê sảng. Năm sau đã dẹp Trung học, đậu nỗi gì. Giấc mơ ông già tầm thường quá, đi dạy học, “cưới con chủ tiệm vải, mở tiệm vải mần ăn”. Tôi trốn trong giấc mơ cao sang hơn (cưới Công chúa Mãn Châu hay làm Phò mã Nhựt). Tôi “tìm bạn bốn phương” với cô gái Nhựt, Mai Mộc Hòa (Kazuko Umeki), liên lạc đến năm 1978, ngày nay nhìn mấy mươi tấm ảnh cô từ nhỏ tới có gia đình mau quá. (lạc đề xa quá!).
Đậu xong Trung học Đệ nhứt cấp, năm đó có nhiều trường Quốc gia Sư phạm mở thêm khóa cấp tốc một năm để đáp ứng nhu cầu gia tăng sĩ số học sinh Tiểu học các quận. Lương tháng 4.200 đồng, cơm tháng chừng năm trăm đồng, chiếc xe Mobylette chừng chưa tới sáu ngàn đồng. Một loạt học sinh học giỏi yên phận, thi vô Quốc gia Sư phạm tỉnh và về quận dạy an nhàn đến năm 1965.
Song song với trường Trung học Châu Đốc, Thủ Khoa Nghĩa, khoảng năm 1953 có trường Nguyễn Đình. Năm 1955, Châu Đốc thêm trường Bán công Nguyễn Hữu Cảnh, kế bên trường Thủ Khoa Nghĩa, học phí nhẹ và lớp Tiếp liên không còn.
Xa trường cũ, bơ vơ giữa đám học sinh đồng học xa lạ Sài Gòn, tôi nhớ ray rứt trường chừng vài tháng, rồi cũng quên.
Năm 1959, có Đại hội Thể thao Học sinh tại sân Tao Đàn. Học sinh Thủ Khoa Nghĩa năm đó đoạt rất nhiều giải điền kinh. Hôm cuối có trận bóng đá chung kết giữa Quốc gia Sư phạm và Trung học Thủ Khoa Nghĩa. Bốn cánh khán đài gồm mấy trường Trung học lớn ở Sài Gòn chiếm cứ (Pétrus Ký, Gia Long, Chu Văn An, Trưng Vương). Tôi may mắn chen vào, ngồi khép nép giữa học sinh Pétrus Ký. Dĩ nhiên  học sinh Sài Gòn ủng hộ Quốc gia Sư phạm. Đội Thủ Khoa Nghĩa nhỏ tuổi hơn bị dẫn 0-2 hiệp đầu, tôi thấy tổn thương. Tên thủ môn Quốc gia Sư phạm lớn con, giữ hay quá, anh cũng gốc Thủ Khoa Nghĩa, trên tôi hai lớp. Hiệp sau Thủ Khoa Nghĩa gỡ 2-2. Thằng học sinh Pétrus Ký ngồi bên tôi la ỏm tỏi, nó la như “huấn luyện viên thượng thặng”: “Tao chỉ jeux cho đá… Tụi Thủ Khoa Nghĩa uống nước mạch chạy mau lắm”. Thủ Khoa Nghĩa thắng điểm đoạt giải Túc cầu Học sinh Toàn quốc năm 1959. Dân Sài Gòn uống nước ống rỉ sét chớ sang trọng gì đó. Từ đó tôi ác cảm với dân gốc Pétrus Ký, mỗi lần gác thi, không nhắc thì chớ, tôi tìm cách đì bọn nó. Xin lỗi! Tôi lớn mà quá tiểu tâm, thù vặt. Vô lý.
Năm 1958, tôi rời trường, hay bị đuổi kỹ thuật, ông Hiệu  trưởng Ngô Văn Dư cũng đổi về Sàigòn. Gặp ông ở chợ Bến Thành, vẫn bộ veston trắng, đội nón nỉ trắng, nắng Sai Gòn ông đi mà chịu nóng. Mấy vị Hiệu trưởng kế tiếp, hình như ông Lịnh, Trịnh Văn Mười Hai, Nguyễn Văn Hộ. Sau 1962, thành trường Trung học Đệ nhứt cấp. Tôi mất liên lạc từ năm rời trường. Mỗi lần về quê ăn Tết, qua khỏi Long Xuyên, tôi đi ngả Lộ Tẻ nên ít có dịp qua Châu Đốc. Trường đã xô tôi ra, suy lại thấy may nhiều hơn rủi. Nếu tôi được nhận, lại vào học Ban A (Khoa Học) làm sao tôi theo nổi môn Lý Hoá, Vạn Vật? Lại ù lì vô ích thêm vài năm nữa, chắc gia đình tôi điên mất. Năm ra trường, danh sách không có nhiệm sở Châu Đốc. Tôi lang bang ở Sài Gòn, rồi năm 1974 xin về Quốc gia Sư phạm An Giang cho gần, Bộ Giáo dục lại cho tôi về Sư phạm Ba Xuyên.
Năm 1971, Hội Cựu học sinh tổ chức họp mặt tại trường vào sáng mồng hai Tết. Tôi từ Tri Tôn ra trễ, được đón tiếp đưa đến chỗ ngồi, thế hệ cấp lớp tôi không có ai, lớp theo đơn vị quân đội, lớp như bèo trôi giạt bờ bến nào?
Lớp trẻ, sau tôi độ năm, sáu năm, chuẩn bị dàn âm thanh đàn hát giúp vui ngày họp mặt. Bơ vơ không gặp một người đồng lứa mình chia sẻ, tôi ngồi ngơ ngác cả buổi. Trường Thủ Khoa Nghĩa không muốn dung chứa, tôi ngồi lơ đãng, Ban Tiếp tân quên cho tôi ly nước, khát nước mà không dám xin, muốn lấy miếng bánh trên dĩa mà còn ngại ngùng, lạc lõng.
Năm xưa chim hót vang rừng
Ăn chung trái ngọt, uống chung suối ngàn
Năm nao chim đã vỡ đàn
Lặng im tiếng hót, ngỡ ngàng cuộc vui.

LƯU NHƠN NGHĨA ( Tuoi Tre Online )

Phần 05: Bao giờ bánh Đúc có xương... - Làm phước

Trước năm 1954, chợ Xà Tón (Tri Tôn) chỉ rộn rịp vào buổi sáng. Dân Khmer mang thổ sản, dân Việt mang nông sản ra bán quanh chợ. Buổi trưa, người Khmer rút vô sóc phụ cận dọc theo chân núi, dân Việt lui về xóm kinh, còn lại chợ trống.
Dân Việt sống dọc theo kinh, làm ruộng, giăng câu. Vì dân thưa, sống rải rác nên khó tập họp. Chiều chiều họ thêm nghề quay dây luộc bán, ngày nay thay bằng dây nilon. Thỉnh thoảng mới có gánh cải lương tới hát vào dịp tết (ít khi họ coi hát, tốn tiền), xe đạp chưa phổ thông, xe lôi thì đường xa, tốn kém.
Dân Hoa trên đường Việt hóa, các bà nói tiếng Việt sõi hơn các ông, tiếng Tiều thu gọn trong gia đình buổi tối, khi cần nói riêng không muốn người ngoài nghe. Lúc đầu còn mấy gánh hát Tiều ghé mỗi tiệm hát một lần, chủ nhân ủng hộ tiền nhưng ít thấy chịu khó ngồi thưởng thức. Vài năm sau 1950, hát Tiều và Sơn Đông mãi võ biến mất luôn.
Cái gì cũng chậm chạp. Xe đò Tri Tôn - Châu Đốc, chặng đường đúng 42 cây số chạy mất gần ba tiếng đồng hồ, thật là chậm tiến. Chuyện xảy ra ở đâu đâu, tới xứ này còn lại khúc đuôi. Thập niên 1940, dân lục tỉnh đã biết danh các cô đào cải lương như Năm Phỉ, Phùng Há, kép Năm Châu, Tư Chơi… Xin lỗi, xứ nầy tới bây giờ chưa có ai biết các đào kép trên, tôi biết nhờ đọc sách của ông Vương Hồng Sển.
Nguyên nhân sự chậm tiến do mấy ông già. Thế hệ trưởng lão thật lạ lùng. Mấy ổng vừa không biết chữ vừa bảo thủ, khó khăn không đâu bằng, lại có quyền uy tuyệt đối với con cháu. Bảo thủ không cần thông báo hay giải thích lý do, mà chưa chắc mấy ổng biết lý do. Con cháu nhắm mắt nghe như là chân lý. Con gái học chi nhiều, học để viết thơ tình à? Thấy bọn tôi tập đi xe đạp, ông ngoại tôi hầm hừ: “Tập cho nó đi xe máy đi, để nữa lớn nó đi bộ à; tập cho nó ăn bánh mì đi, để nữa lớn nó ăn cỏ à”. Hễ thấy có gì lạ là hầm hừ, chỉ biết hầm hừ, suốt đời không thấy thân thiện với con cháu. Thấy ổng là bọn tôi biết thân lánh xa, ổng còn được khen có "uy" với con cháu. Ngày ổng mất, bọn cháu giỡn như giặc chòm.
Ở tỉnh người ta phidê tóc, xứ tôi đố đứa nào dám uốn tóc. Ông có người con dâu gốc ở chợ bới tóc kiểu mới. Ở Xà Tón, các bà chải xuôi ra sau, quấn lại rồi bới; người con dâu ông chải tóc thành ba lọn, lọn ở giữa, hai lọn hai bên màng tang ốp lại mới bới, sau đầu người dâu có hai làn tóc. Ông kêu mấy người dâu khác, nói: "Bây a, ra coi cái đầu nó bị nứt nè bây".
Giàn hát máy quay dây thiều mài kim có từ đời nào rồi, mãi đến năm 1950 mới tới chợ nầy. Chỉ vài nhà có, ít khi mang ra hát, cưng máy sợ hư, chỉ hát vào dịp đám cưới. Bọn con nít không có gì giải trí, thèm nghe lắm, nghe vài lần thuộc bài hát ngay, chép lại hát nghêu ngao. Giàn máy ASIA để lại nhiều ảnh hưởng trong nếp sống dân chợ. Mỗi tuồng hát để lại bài học nào đó, chưa kể khía cạnh văn chương ngôn ngữ. Người nghe vừa học vừa hành tới nơi tới chốn, nhứt là các bà các cô.
Ví dụ như tuồng “Phạm Công Cúc Hoa”, trạng nguyên Phạm Công, vợ Cúc Hoa, có hai đứa con tên Nghi Xuân và Tấn Lực. Cúc Hoa bịnh mất. Vì có lịnh vua sai đi dẹp giặc, Phạm Công cưới vợ sau là Tào Thị để săn sóc con. Khi Phạm Công đi xa, Tào Thị bạc đãi con chồng, bắt Nghi Xuân, Tấn Lực ra đồng chăn vịt, rồi đuổi hai trẻ ra khỏi nhà. Hai chị em dắt nhau đi ăn xin qua ngày. Đêm khuya, hai trẻ ngủ bên vệ đường, hồn Cúc Hoa hiện về an ủi và bắt chí cho Nghi Xuân, dặn dò chỉ đường về nhà ông ngoại, nhưng bà ngoại không nhìn ra cháu. Hai trẻ tình cờ vào dinh Trạng nguyên vừa dẹp giặc về, xin cơm. Cha con nhận ra nhau, đoàn tụ. Phạm Công về đuổi Tào Thị, mụ nầy bị trời đánh chết.
Tuồng hát đơn giản, tình tiết, bài bản rất hay từ đầu đến cuối, nghe mới thấm thía và có ảnh hưởng sâu xa mãnh liệt ở chợ quê này. Buổi tối khi nhà tiệm đóng cửa, cảnh vật thanh vắng, không khí êm ả mát lành, bên ngọn đèn bánh ú leo lét, giàn hát máy bắt đầu. Thời bình tịnh, trăm người như một, chú tâm lắng nghe. Họ say sưa thưởng thức từng tiếng, từng câu hát, như uống ly nuớc chanh buổi trưa nắng, không chừa giọt nước nào. Nghe xong rồi lại nhập tâm hát theo, nhập vai, sau nầy mang ra ứng dụng trong nếp sống hằng ngày. Tiếng đàn hát vang xa, quyện trong không gian mang niềm vui buồn; bài học nghĩa nhơn hiến cho chợ quê.
Khi Cúc Hoa mất, Phạm Công được lịnh ra biên ải dẹp loạn, nói lối: “Nghi Xuân, Tấn Lực hai con ôi, cha đã vội cam bề đơn chiếc thì hai con cũng đành sớm chịu mồ côi. Rồi khi ngọn đèn khuya leo lét chốn cô phòng con lạnh lẽo…”. Nghe Phạm Công than thở trong giàn hát máy mới hiểu được hoàn cảnh bi thương. Cha thì đơn chiếc (đơn mà còn chiếc), con thì mồ côi. Cha con ngồi bên ngọn đèn khuya leo lét, chồng nhớ vợ, con nhớ mẹ. Phạm Công thương con hay muốn vợ? Lấy vợ là hợp lý, cha cần vợ kế, con cần mẹ ghẻ. Các bà không chê tránh Phạm Công, chỉ nguyền rủa Tào Thị, tưởng tượng mình là Cúc Hoa (chưa chết). Đầu hôm nghe Phạm Công than van, khuya nghe Tào Thị đanh đá chửi con chồng, bài bản này ai cũng thuộc vì dễ hát. Nghệ sĩ vai Tào Thị diễn đạt hoàn toàn cái ác tâm của bà dì ghẻ:
“Bớ Nghi Xuân, Tấn Lực, tại sao tao đã biểu bây ra đồng chăn vịt, bây để cho vịt đi mất hết vậy? Chúng bây là đồ báo cô, cơm dư thà là đổ đi, tốt hơn cho chúng bây ăn. Nuôi bây cho lớn khôn, tránh đâu tiếng đời mẹ ghẻ con chồng. Thật uổng công tao, đi đi cho mau!”.
Cái ác của Tào Thị đã vậy, tiếp theo là cái bi ai, cảnh thảm sầu não lòng. Đêm khuya, khi hai đứa bé nằm ngủ bơ vơ, màn trời chiếu đất bên giàn thiên lý, hồn Cúc Hoa hiện về, chỉ nghe tiếng chứ không thấy. Cũng không cần thấy, cứ để tâm hồn theo tiếng kêu âm hồn của Cúc Hoa: “Bớ Nghi Xuân, Tấn Lực hai con...”. Hai đứa bé kêu “Mẹ, mẹ”, dù kẻ có tấm lòng sắt đá đến đâu khó tránh mủi lòng, nếu không khóc. Tim các bà mẹ tan thành nước mắt. Lúc hồn Cúc Hoa vạch tóc bắt chí cho Nghi Xuân: “Để mẹ bắt chí cho con, trời ơi (tiếng trời ơi nghe não nuột), con gái lớn rồi mà không gương lược…”. Cảnh mẹ bắt chí cho con thời đó quen thuộc hằng ngày, người ta trở thành Cúc Hoa bắt chí cho con, họ xót lòng tự nhiên thương con gái hơn. Chưa hết, còn nữa, lúc gần sáng Cúc Hoa chia tay con, biến đi, hai đứa kêu: “Mẹ ơi, đừng bỏ con đi!”, cái xóm chợ nầy đổ bao nhiêu nước mắt chơn thật, nước mắt của chính người mẹ và tình mẫu tử.
Cả vở tuồng chỉ có đoạn Tào Thị chửi mắng bắt Nghi Xuân Tấn Lực chăn vịt và đoạn Cúc Hoa hiện hồn về bắt chí cho con là đáng nhớ. Các bà lấy tuồng hát ứng dụng trong gia đình. Mỗi khi nổi cơn, nguyên nhân không liên hệ gì đến chuyện mẹ ghẻ con chồng, mấy bà nổi máu cải lương: "Nếu tôi có chết, con tôi cũng khổ như Nghi Xuân, Tấn Lực!". Nhưng mấy bả không đóng nổi vai Cúc Hoa, mà nhảy đông đổng lên, nhứt định không chịu chết cho người ta có vợ bé mới ngặt!
Đồng thời với vở tuồng “Phạm Công Cúc Hoa”, chợ Xà Tón xảy ra hai vụ "mẹ ghẻ con chồng". Lửa đã sẵn, thêm dầu, chuyện nhỏ xé to, gây cuộc khủng hoảng khá lâu, dân Tiều phải nhập cuộc áp lực mới yên. Vụ thứ nhứt là của ông bang Ứng họ Huỳnh, tiệm Vĩnh Phong Chành. Ông lớn người, tốt tướng, đàn anh trong quận, tận tình giúp đỡ dân Hoa trôi giạt về đây. Ai nghèo, ông giúp đỡ vô điều kiện. Chành ông gồm hai căn phố lầu ở giữa dãy phố, cửa tấn bằng những bao muối an toàn. Đêm đêm, năm 1945, ông kêu gia đình khu mất an ninh hay nhà vách ván đến nhà ông ngủ. Trên lầu nhà ông, nhiều gia đình - nhứt là đàn bà, trẻ con -  đến ngủ.
Ông bang Ứng có vợ lớn bên Tàu, qua Việt Nam chỉ dẫn theo người con trai lớn là chệt Chiêu. Chệt Chiêu cũng có vợ lớn bên Tàu, dẫn qua con trai lớn là thằng Huỳnh Hạng và vợ nhỏ với bầy con sau. Chệt Chiêu chẳng những không thương, còn ghét Hạng ra mặt, nó bị đòn nhiều lần, mẹ tôi bất nhẫn. Vợ hai ông bang Ứng là ý (dì) Lèn. Ý Lèn sanh thằng Tỷ, trắng tươi, cao lớn. Ý Lèn ít nói, hiền như đất, ít thấy ai hiền như ý Lèn ở xứ nầy. Trưa trưa, ý Lèn dẫn Tỷ và Hạng ra chợ ăn quà. Ý thương Hạng như Tỷ. Hình ảnh người mẹ hiền với hai con hai bên ngồi ăn bánh chuối hấp chấm nước dừa, ai thấy cũng thương. Hạng thương ý như mẹ ruột, dù kêu bằng “a má” (bà). Nếu không có ý, Hạng bơ vơ, thiếu cả tình mẹ lẫn tình cha. Sau khi ý mất, họ vừa nhắc vừa thương: "Nhớ chế Lèn dẫn hai đứa nhỏ ăn bánh chuối".
Tin ý Lèn mất làm rúng động dân Hoa ở chợ.  Lúc động quan, Hạng giãy dụa nhào lăn ra khóc kêu “má, má”, tiếng khóc động tới hoàng thiên, còn ai thương yêu binh vực Hạng? Ông bang Ứng lấy vợ ba. Dân bổn phố đã thuộc lòng tuồng tích “Phạm Công Cúc Hoa”, để tâm theo dõi chành ông bang. Chuyện các bà đoán xảy ra y như tuồng Phạm Công Cúc Hoa đã đến.
Buổi trưa, ông già tôi mặc áo thun lá quần ngắn, đưa võng lim dim. Tỉa Tà Dú, chệt Kia Mẫu mang guốc lộp cộp vô nhà nói nhỏ với ổng. Ông già tôi xám mặt, vội vã xỏ áo Tiều, mặc quần lãnh đen qua kéo thêm củ (cậu) Phú đi xai xải. Dãy phố bên kia, ý Tư Lềnh, ý Xẻng la: "Đi đi, mau coi", mặt nghiêm trọng lắm. Tin gì như trời sập.
Dân bổn phố tới đầy nhà ông bang Ứng. Bà vợ ba ông bang vừa lấy dao cắt tay thằng Tỷ! Lửa cháy thật rồi. Cả chợ ầm lên xôn xao: "Tôi đã nói mẹ ghẻ con chồng mà", làm như Tỷ là con mấy bả.  Mấy ông cũng lọt vô bẫy, chuyện này đâu phải dành riêng cho mấy bà, đàn ông cũng họp lại làm cho ra lẽ vì ai cũng mang ơn và thương ý Lèn ít nhiều. Bao nhiêu tình thương và ơn nghĩa dành cho ý Lèn nay dồn hết qua Tỷ. Tỷ bị giấu biệt trong nhà, cả tuần sau, thoát ra đi chơi ngoài chợ. Ý Im, vợ chệt Tào Cua, ông già thằng Tùa Tháo, nắm tay Tỷ đến nhà tôi, không ghé tiệm ông Lào Tán. Ý cầm tay Tỷ phân trần: "Xố (chị dâu) coi nè, một lằn dao vậy nè, ai mà ác dữ vậy”. Bà già tôi cầm tay Tỷ, thút thít: “Phải còn mẹ đâu đến đổi vậy”.  Bà già tôi bàn giao Tỷ cho kiểm (thiếm) Phú kế bên: “Kiếm coi coi”. Kiểm Phú vuốt tay chỗ vết thương Tỷ, nói một tràng tiếng Tiều, thở hổn hển. Tôi tò mò nhìn tay Tỷ, vết trầy chừng ba phân, như nhánh cây quẹt, thua xa vết trầy trên gối tôi khi té xe máy.
Dãy phố bên kia, ý Tư Lềng kêu: “Lại đây coi Tỷ”. Rồi cầm tay Tỷ: “Ai coi đó, con hổng có mẹ, chế (chị) Lèn ơi, chế nỡ bỏ con đành đoạn vậy". Tiếng ý Tư vang khắp dãy phố. Bà Chiệp Xe bỏ bàn nạo dừa xuống chạy ra, bà Vạn Trường Xuân thuốc Bắc, ý Ba Lại, ông Đại Đức chành coi tay Tỷ, mỗi người một tiếng, mạnh ai nấy nói, tranh nhau nói. Vài bà tức tưởi chỉ một câu: “Phải chi còn mẹ".
Tiếng ý Xẻn từ ngoài chợ: “Ai đụng tới con có ý đây nghe Tỷ!”. Ý Tư Lềnh vuốt theo: “Đừng sợ con”. Người ơn nghĩa đã vậy, người nghe tuồng Phạm Công cũng xót xa. Sau nầy, tôi có ghé tiệm Vĩnh Phong Chành, bà vợ ba ông bang Ứng hiền khô, bả nuôi Tỷ trọn vẹn, vất vả buôn bán không hở tay từ trong tới ngoài.
Cùng trường hợp đó, bên cạnh nhà tôi là tiệm ông Lào Tán bán tạp hóa, gia cảnh nặng nề hơn nhiều mà không thấy ai nhắc. Ông Lào Tán gốc bên Từng Xua (Đường Sơn) qua, vợ ông mất để lại ba người con. Ý Nái có chồng, con là thằng Ik Bắc ở riêng. Hia Khù Khì thỉnh thoảng về vài ngày, chỉ có chế Nghín, con út, chừng 16 tuổi ở nhà. Ông Lào tán cưới vợ hai gốc Tịnh Biên, trúng số “độc đắc”.
Buổi sáng bà già tôi tò mò nhìn qua nhà ông Lào Tán, lầm thầm:  “Bà nhỏ…”. Bà này dữ chưa từng thấy, chửi lộn trong nhà, hàng xóm, người buôn bán ngoài chợ thường xuyên. Bả còn dữ hơn Tào Thị. Đêm khuya, bả chửi làm hàng xóm mất ngủ, không ai than phiền. Bả chửi chế Nghín chưa đã, làm luôn mẹ chế Nghín. Bả nhìn lên bàn thờ vợ lớn ông Lào Tán, mẹ chế Nghín, hét: “Chế ơi, chế về đem nó đi theo đi, cúng cơm chế có cái mặt này nấu chớ hổng có ai đâu”. Hình như bả ghiền chửi lộn, vừa có cả kho tàng từ ngữ chửi lộn. Bả to con, chửi hàng giờ không biết mệt. Cũng may bà già tôi khéo xử, chiều chiều qua nhà ngoại tôi thăm anh em, ít qua lại, đỡ mất lòng nhau. Dân Tiều bất lực, thỉnh thoảng ông già tôi qua can: “Mại, mại mà tàn chệt à, ca bấu chế nì mut” (Thôi chú Trần à, vợ nhà làm sao nói?).
Chửi lộn với hàng xóm chưa đã, bả làm luôn với người buôn gánh bán bưng trước nhà. Ai cũng kiêng dè bả. Con Ten con bả đánh lộn với con nít lối xóm, bả nhào ra ăn thua đủ. Củ Sáu tôi vừa mua căn phố xéo sau nhà bả, ở riêng với bên ngoại tôi nên mở giàn hát máy thả cửa, lại mở lớn tuồng Phạm Công Cúc Hoa. Bà Lào Tán làm như điếc, củ Sáu tôi: “Ai giỏi qua đây”. Bên ngoại tôi chín anh em chưa kể xe đò, đám Sáu Tống nghề võ, Ba Gần tài xế.
Một buổi sáng, kiểm (thiếm) Kim Xul bán hàng xáo hiền lắm, ngồi ăn chuối xào dừa trước tiệm ông Lào Tán. Ăn thì lo ăn đi, kiểm cũng có tật nhiều chuyện, nói cho ngay kiểm khơi lại chuyện Tỷ bị cắt đứt tay, chứ không liên hệ tới cái vụ bà Lào Tán với chế Nghín. Kiểm vừa ăn vừa lắc đầu: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ nó thương con chồng”. Dì bán chuối xào dừa cũng đồng ý, khen câu nói của người xưa hay quá. Kiểm Kim Xul lại kết luận, mẹ ghẻ mười người ác như mười. Bà Lào Tán xách con cá mới mua vừa đi ngang nghe được, bị chạm nọc, cơn tam bành lục tặc nổi lên, liệng con cá vô mặt kiểm Kim Xul, rồi bả xăn tay áo, nhảy dựng lên chống nạnh tay trái, tay phải nhịp nhịp, bao nhiêu tiếng văn chương chửi lộn tuôn ra như thác .
Tiệm ông Lào Tán và khu bán chuối xào dừa phải ngưng hẳn bán buôn. Bà Lào Tán đặt câu hỏi hóc búa, kiểm Kim Xul ít học đành dùng tay chưn, có khi đòn gánh, để đáp cho đúng câu hỏi của bà Lào Tán: “Tại làm sao mà nó biết mẹ ghẻ ác chớ?”.
=====================
Làm phước
Xứ tôi ở gần biên giới Campuchia, trước mặt là ruộng, sau lưng là những dãy núi che chở. Đất nầy thích hợp cho người lỡ vận, sa cơ.
Dân Khmer ở thành từng sóc biệt lập dọc theo chân núi, mỗi sóc đều có ngôi chùa cổ khang trang, kiến trúc cùng một mẫu, hai mái chồng lên nhau, gió luồn vào chùa mát mẻ. Trên nóc có Thần Rắn nằm, dưới mái có Thần Hầu đỡ. Ông Tà Ul chỉ ngôi chùa Préa Theat nói: “Hồi ông ngoại tôi đã có chùa vậy rồi, ba mươi mấy ông sãi cả”.
Ở đâu có khói có lửa là có người Hoa. Góc núi Sóc Mẹt, trước thời Pháp không biết lý do gì mà dân Hoa cũng tới đây. Họ tới bằng cách nào khi đế sậy ngập đồng, nước tràn mênh mông? Nhiều ông già Khmer da đen, mặt Khmer, nói tiếng Khmer rặt, mà họ Huỳnh, họ Trần, họ Lâm… Chùa Ông Bổn (gọi tắt là chùa Ông) là trung tâm tinh thần.
Dân “An Nam” mình không nhiều, có lẽ đến đây theo những đợt di dân, đào kinh của ngài Thoại Ngọc Hầu và Nguyễn Hữu Cảnh. Họ ở dọc theo bờ kinh Tây đào, sống nhờ ruộng và cá. Nghèo mà xây được cái đình rộng, cây song quanh tường bằng gỗ sao. Không có thần để thờ, họ đành mượn sắc thần chợ Cây Me thờ.
Người Việt và người Khmer ít chung đụng. Việt ở theo kinh, làm ruộng bưng. Khmer sống dọc theo núi, làm ruộng trên, thêm nghề làm rẫy trồng rau. Người Việt thì rất Việt, người Khmer thì rất Khmer, như nước với dầu chứ không phải như nước với lửa. Xóm người Việt thì không có người Khmer, sóc người Khmer thì không có người Việt, chỉ buôn bán đổi chác ở chợ. Xưa, dư ăn dư để nên không cần cạnh tranh lấn lướt nhau, chưa va chạm nhau lần nào.
Dân Hoa ở quanh chợ, lúc đó nhiều người “Từng Xua chẻm lái” (bên Đường Sơn vừa qua), tiếng Việt không rành, hiếm có người biết chữ Hoa ở trình độ viết được cái thư. Biết chữ thì ai bỏ xứ đi? Vì dốt, vì nghèo mới qua Nam Việt. Ở Chợ Lớn không kham, ở lục tỉnh không nổi, trôi giạt về đây, có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo. Dân Hoa hòa đồng được với Việt và Khmer nhưng có vẻ thân Khmer hơn vì Khmer hiền, Việt thì khôn hơn.
Nói cho ngay dân Khmer nếu là đàn ông mới có cơ hội biết chữ Khmer lõm bõm nhờ vô chùa tu mấy tháng trả ơn cha mẹ. Học xong trả hết lại cho mấy ông sãi. Dân Việt còn vài người già biết chữ Nho. Năm 1963 còn thấy được một người già, mặc bà ba đen, đầu quấn khăn, ngồi viết liễn chợ tết. Chữ quốc ngữ đàn ông ai cũng biết, trình độ cao nhứt là lớp 3. Các bà không biết chữ, bắt mấy đứa cháu đọc giảng truyện Hoa, thơ Vân Tiên cho nghe. Thằng bé có cơ hội tập đọc nhuần nhã, cả hai bà cháu, người đọc, người nghe rồi thuộc luôn.
Bà chết đi, thằng bé lớn lên được thấm nhuần chút văn hóa cũ, trong đó mọi người đều tin ở “phước đức”. Hai chữ phước và đức đi liền nhau, người có đức mới có phước, người làm phước mới tạo đức. Ý niệm nầy tôi không nghe nói và không biết tìm từ ngữ nào tương đương trong Anh ngữ.
Chữ Đức tôi tìm không ra từ nguyên và cách giải thích trong chữ Nho. Chữ này gồm bộ xích (bước đi ngắn), chữ thập (số 10), chữ tứ (số 4), chữ nhứt (số 1) và chữ tâm (tấm lòng).
Học trò xưa đọc cho dễ nhớ: “Chèo bẻo vắt vẻo cành tre (bộ sách giống con chim chèo bẻo đứng trên cành tre), thập trên tứ dưới, nhất đè chữ tâm”.
Chữ Phước bộ kỳ bên là chữ nhất (một), khẩu (miệng), điền (ruộng), có một miệng ăn, có ruộng là giàu, được sức mạnh thiêng liêng che chở (kỳ). Ý nói mấy ổng làm ăn phát tài là nhờ mấy ổng ngay thẳng, ngay thẳng theo kiểu mấy ổng đặt ra, buôn bán phải giữ chữ tín, thiếu tiền thì phải trả; nhưng làm ăn, ai vốn lớn càng ngày càng phát, đè bẹp người có vốn nhỏ. Phước chỗ nào?
Ở xứ nầy đặc biệt có chữ “làm phước”.
Chữ Phước đọc theo âm hai môi (bi-labial) /p-/ chứ không đọc theo âm môi răng (labio-dental) /f/, đây là âm rất xưa.
Chữ “làm phước” của dân Việt Nam xứ nầy làm chớ không nói. Dân Hoa, ngoài việc cúng chùa Ông Bổn, cũng bắt chước làm theo.
Dân Khmer cũng có chữ đồng nghĩa với “làm phước” của Việt Nam: “thơ buln”, “thơ” là làm, “buln” là phước.
Ba sắc dân với ba nếp sống văn hóa khác nhau, lại gặp nhau ở đất “phước địa”, nhờ sự trùng hợp này mà người giàu có cơ hội tạo phước đức cho con cháu. Như người ăn xin ngoài chợ: “Cô bác ơi, thân tôi đui tối tật nguyền, cô bác làm phước gặp phước”. Người nghèo không có gia sản cũng theo đó góp công làm phước. Kẻ công ngưòi của, người tận cùng khốn khổ nhận được cái lộc, đỡ khổ.
Dân Khmer thường đóng góp xây dựng chùa chiền, họ “thơ buln” tại chùa, có nhạc ngũ âm. Có khi làm ở nhà, phát tiền gạo cho người nghèo, thường thì “thơ buln” vài ngày, có khi cả tuần nếu nhà khá giả.
Trên những cánh đồng mùa khô đất nẻ, thỉnh thoảng có cái “xala” - nhà nghỉ mát, chỉ có bốn cây cột, cái mái đơn giản, bên cạnh là giếng nước. Buổi trưa nắng gắt giữa đồng không một bóng cây, người cày ruộng vào xala nghỉ mệt chốc lát, múc nước giếng lên uống đỡ khát. Mùa mưa, họ chen chúc đứng đụt mưa dưới mái xala.
Người Khmer theo đạo Phật Nam tông, có sẵn ý niệm thơ buln làm phước, bố thí trong đạo Phật, cụ thể hóa bằng cái xala và giếng nước giữa đồng, cũng như người Việt có để khạp nước và cái gáo dừa trước nhà đãi khách đi qua.
Quên kể, ông ngoại tôi thấy giếng nước Chơn Phnum ai đào sẵn dưới chân đồi. Trên đồi là nghĩa địa, chắc vậy mà nước trắng đục - “nước cốt”. Ông sửa sang, xây thành giếng, vét giếng, rồi để tên hiệu tiệm “Đức Phong” của ông. Ông làm phước nhờ cái giếng đó, bằng cách sửa chữa hàng năm để “lấy phước”. Có mấy người có tiền, muốn “chia phước” xin sửa giếng, đề tên trên thành giếng nhưng ông không cho. Theo tôi, ông giành phước chứ không phải làm phước. Làm phước còn đề tên cho người ta biết. Ông độc quyền làm phước, hưởng phước, không cho ai tham gia, giống như ông độc quyền đại lý xăng dầu, lúa gạo, nước mắm trong xứ.
Dân Việt dựa vào cơ sở sẵn có như đình chùa để làm phước. Người có của đóng góp tiền bạc, người khác lấy công mình đặt mua cây cỏ thuốc trên núi, ngày ngày chặt cây thuốc ra phơi hay sao thủy thổ, ông thầy thuốc nam hốt thuốc cho người bịnh miễn phí. Đây là lối làm phước thông thường nhứt ở quê tôi, chỉ giới hạn trong nhu cầu thuốc men.
Cá nhân làm phước cũng rất nhiều. Họ làm âm thầm, nếu lộ liễu quá thì không kham nổi. Bà già tôi nhờ người bạn ngoài kinh, biết ai bịnh bà bạn này sẽ tới tiệm thuốc bắc Bảo An Xương lấy thuốc, phát cho người bịnh; cuối tháng bà già tôi trả. Ông già tôi những ngày cuối cùng, biết mình sắp đi, mỗi sáng ông lấy tiền mới, ngồi trước cửa nhà, ai nghèo đi qua ông kêu lại cho. Cuối đời ông mới chịu xả, làm phước, dù lúc đó, sau 1975, không còn dư dả. Côn ngoại tôi xưa hơn, chỉ có ba bộ quần áo Tiều, may thêm quá ba bộ là ông cho, đầu đội nón chóp tre, chống gậy như cái bang. Con cháu cung cấp rượu Martel ngâm Cao Ly sâm, ông không uống lại mời bạn bè tới uống. Ông còn “làm phước hy hữu”: Mỗi sáng ông ghé trạm xăng củ Út tôi “tởi tiền” (quyên tiền) rồi mang ra chợ phân phát. Có lúc lẩm cẩm, ông xách gậy cái bang ghé nhà củ Sáu tôi (ông nầy hai, ba vợ, có chức sắc, thích uy quyền, ít qua lại với thân nhân, trừ khi mượn tiền). Ông vô tiệm gặp kiểm Sáu tôi, xin tiền. Bà nầy đang bán buôn chộn rộn, tưởng ông lẩm cẩm, không trả lời. Ông cứ đứng nằn nì xin cho được. Có người quen kéo ông ra khỏi tiệm, dẫn ông về. Hỏi ông xin tiền làm gì, ông chậm rãi nói: “Tao xin tiền nó để làm phước cho nó, ai cũng đưa tiền cho tao làm phước, chỉ có mình nó chưa đưa”. Ông tin như thiệt là làm phước gặp phước. Mà thực tế, gia đình tôi ai làm phước đều gặp phước, gia đình ai cũng khá, hầu hết ở ngoại quốc, còn ở Việt Nam cũng khá, trừ gia đình củ Sáu tôi, nghèo tới bán nhà, anh em không ai nhìn. Việc đó nhãn tiền, tôi muốn không tin cũng không được.
Ngày nay, việc làm phước quê tôi có tổ chức rộng lớn hơn, lấy căn bản chọn mặt gởi vàng, người đứng đầu phải có đạo đức. Thế hệ hiện tại, dù xa xứ mỗi lần trở về đều có người mua gạo phát cho người nghèo. Trẻ mà có lòng, đi xa thành công còn nhớ người nghèo, quý biết chừng nào.  
Bản thân tôi chưa làm được việc gì xứng đáng là “làm phước”, quanh quẩn quà biếu thân nhân, bạn bè quen biết ở xứ sở. Tâm tôi còn mong cầu “làm phước gặp phước”.
Quán chiếu chính mình, tâm tôi còn giới hạn, giúp ai cũng có điều kiện, chỉ nghĩ đến người gần nhứt. Tâm tôi chưa mở rộng. Làm điều gì tốt cho ai, tâm tôi còn cầu, có thể là một lời cám ơn, có thể mong tương lai được đền bù khi gặp khó khăn.
Từ đây về sau, hoàn cảnh tôi không cho phép tôi làm phước, tôi lại ở tư thế người nhận. Cứ ba tuần vào bệnh viện nằm nhận 750ml máu, máu cùng loại của người hiến máu. Nhiều lần thấy xe ngân hàng máu đậu ở khu phố, người ta đứng dưới cơn nắng nóng chờ tới lượt hiến máu. Anh lái xe truck vạm vỡ, tay chân mình mẩy xâm hình lạ lùng, hiến máu xong leo lên xe, cầm chai Coca ngửa cổ tu một hơi rồi mở máy xe chạy đi giao hàng. Anh làm phước theo nghĩa Việt Nam, nhưng anh coi đó bình thường như việc anh nốc cạn chai Coca giải khát, hết chuyện. Anh không nghĩ ngợi chuyện tội phước. Người Úc có quan niệm công bằng xã hội, mình có dư thì mình cho người đang cần, khi mình cần thì sẽ có người khác cho lại. Sòng phẳng.
Ngày nay xứ tôi người ta tiếp tục làm phước rất nhiều. Nhiều người làm thiện nguyện có uy tín, trong sạch, nấu cơm chay cho bịnh nhân và người thăm bịnh. Cơm gạo Thần nông, canh rau, củ cải kho mặn, qua bữa ăn cho người nghèo. Dân bổn phố đóng tiền, người bán rau cải thì cho rau cải bán dư. Sau mùa gặt, ghe nhóm từ thiện đi góp gạo qua các cánh đồng, người tự nguyện đóng góp vài giạ gạo, đầy ghe, đủ cho người bịnh ăn cơm mãn năm. Trong bếp sau nhà thương, người bửa củi, người nấu ăn, người lái xe chở bịnh. Người nghèo chết cũng được cái hòm bằng gỗ cây gòn, ván mỏng, sơn đỏ, đỡ tủi lòng.
Dân quê tôi dù sống nhiều năm trong xã hội nhiễu nhương, vẫn còn thấm nhuần tinh thần tương trợ, làm phước, âm đức dày, tương lai tất phải khá.

LƯU NHƠN NGHĨA ( Tuoi Tre Online )

Phần 06: Bốn năm với trường trung học thủ khoa nghĩa

Lâu nay mỗi lần gặp người cùng tỉnh, tôi đều cố gắng hỏi thăm ngôi trường cũ, thầy cô và bạn bè, mà không biết thêm gì nhiều. Ở Đức chưa gặp bạn học gốc Châu Đốc nào. Ở Úc liên lạc được ba đứa, tuy cách nhau hơn ba ngàn cây số, qua điện thoại mới hay bọn nó đã thay lòng đổi xác: “Hơi sức đâu mầy nhắc chuyện năm xưa nghe N.”.
Tệ hơn nữa, đứa qua trước mở nhà hàng thành công, không muốn nhìn bạn cũ rách rưới mới qua sau nầy. Thất vọng quá, tôi đơn độc gom góp viết lại những điều bạn bè còn nhớ cộng thêm điều mình nhớ về ngôi trường cũ, may ra đồng môn đọc được còn xuất đầu lộ diện chỉ giáo.
Là học sinh hậu sinh 1954-1958 của trường tỉnh Châu Đốc, bây giờ đã hơi già, dĩ nhiên lớp thầy cũ đã “ra đi” gần hết, lớp đàn anh mất liên lạc. Tôi kém may mắn vì có trí nhớ bất bình thường, có thể nhớ đầy đủ chi tiết mình chứng kiến thời thơ ấu, hiện tại thực tế thì hay quên, nhứt là lạc vào trung tâm thành phố, tôi mất hàng giờ tìm đường ra.
Tôi nhớ gần 80% tên bạn học chung lớp Đệ Thất C trường trung học Thủ Khoa Nghĩa năm 1954-1955, những gương mặt và cá tính, phòng ốc, bàn ghế chỗ bọn nó ngồi, vậy mà khi đi phỏng vấn việc làm ban đêm, sau khi cẩn thận xem bản đồ, ghi chép tên đường, góc phố, chạy đi chạy lại cho quen, ngày đi phỏng vấn lại lạc đường!
Tôi không phải là dân chánh gốc Châu Đốc. Sinh trưởng ở Tri Tôn, một quận hẻo lánh vùng Bảy Núi, lúc đầu học trường Tiều ở Mỹ Đức, sau đó học trường Miên, trường Việt ở quê, lông bông không biết bao nhiêu năm, nhờ vậy ngày nay nói tiếng Tiều lỏm bỏm, tiếng Miên ba rọi, lại được khen “bá nghệ bá tri” (vị chi bá láp).
Năm tôi học lớp Năm, thầy tôi phải dạy ba lớp: lớp Năm, lớp Tư và lớp Ba. Lúc tôi học lớp Tư, có cô giáo Ni vào dạy lớp Năm. Cô giáo Ni mặc xà-rông đen, áo cánh Nam Vang, tóc ngắn, nước da trắng hồng, thuộc gia đình dòng dõi trong quận, cô đẹp nhứt tỉnh Châu Đốc, nói không ngoa. Việc học càng mở mang, năm tôi học lớp Ba, có thêm hai thầy, thầy Chón (có tiệm sách sau nhà tôi) và thầy Lý (Trang Thuận, đậu Certificat d’Etude Primaire, tương đương lớp 6 ngày nay) dạy lớp Tư.
Cuối năm lớp Tư, tôi được thưởng cuốn Loài chim mùa vải chín của Lý Thị Tuyết Mai. Cũng học lớp Tư (học lại) được thưởng cuốn chuyện Khoa học Việt Nam của Nguyễn Công Hoan. Tất cả học sinh đều được thưởng. Năm đó buổi lễ phát thưởng tổ chức chung với trường Miên chùa trên. Ông quận Miên, tên Mao Kim Sóc, người phương phi, điềm đạm: “Các em hãy lắng nghe! Đây là bảng (?) của Đức Quốc trưởng Bảo Đại nhắn nhủ học sinh toàn quốc: Nghỉ hè đã đến, trước khi các em sắp tạm biệt nhà trường, nhân dịp lễ phát phần thưởng cuối năm, tôi có lời nhắn nhủ các em. Trước hết, tôi thành thật khen ngợi những học sinh được thưởng, xứng đáng với phần thưởng nhà trường cấp phát. Còn những em nào không được thưởng, tôi khuyên, chớ nên nản chí, hãy nhớ câu, có công mài sắt, có ngày nên kim…”. 
Vì là quyển chuyện đầu tiên trong đời, tôi đọc nhiều lần đến đỗi gần như thuộc lòng một số chuyện (Chim tu hú, Chim bìm bịp, Chim áo già…). Ở Đức, đêm trời lạnh, tôi ưa kể cho con tôi nghe chuyện Chim đa đa, có đoạn “gã tiều phu vác củi về thấy Đa Đa đang ngồi khóc, không chịu ăn bát cơm của người mẹ ghẻ. Bà mẹ ghẻ đay nghiến, gã tiều phu dùng rựa chém tét đầu Đa Đa. Đêm đó, gã tiều phu chiêm bao thấy người vợ mình dẫn Đa Đa về khóc lóc, tay chỉ vào chén cơm của người mẹ ghẻ! Sáng ra, soát lại chén cơm, thấy trên mặt là một lớp cơm mỏng, bên dưới toàn những cát; gã hối hận xách rựa trốn vào rừng, thấy con chim lạ cúi đầu kêu lên những tiếng “bát cơm trả lại cho cha, đánh chát đầu ra bạc ác, Đa Đa”.
Quyển chuyện Khoa học Việt Nam có chuyện Vụ án Trúc Đào. Bài điếu văn của Hạc Đính khóc Trúc Đào tôi nhớ trọn, bắt đầu: 
Ấy vị nước quên mình cho đến nỗi
Nhớ Trúc Đào hiền thê em hỡi…
Kết thúc:
Nay xin ghi chép mấy lời vào bia đá để kỷ niệm nghìn thu.
                                                                           (Hạc Đính khấp bái)
Lạc đề, xin trở lại ngôi trường Đình. Năm lớp Ba 1951-1952 khá thoải mái. Lớp chừng 24 học sinh, hai dãy bàn, mỗi bàn bốn đứa. Tôi ngồi bàn đầu, thằng Chùn ngồi đầu bàn đưa bài cho tôi chép, trả công hậu bằng tiền mặt. Cuối năm lớp Ba, thầy gọi tôi lên bảng làm bài toán đố cuối cùng duy nhứt trước khi xuống núi.
Sách giáo khoa thời đó không nhiều, có thể vì xứ tôi cô lập. Cuốn vần “Chó với gà một nhà xum họp. Cơn rảnh rang mài miệt chuyện trò; Rừng nhu biển thánh khôn dò. Khuyên trò ráng học, học cho thành tài…” hình bìa có con chó mặc quần short gãi chân và con gà trống. Phổ thông nhứt là ba cuốn Quốc văn giáo khoa thư (lớp Đồng Ấu, Dự Bị và Sơ Đẳng). Tôi may mắn còn giữ được hai cuốn. Bạn bè tới nhà chơi, đem ra cho nó coi, sách cũ cưng sợ rách, bọn nó lật soàn soạt thấy phát nóng).
Quê tôi nằm giữa khu núi non, cô lập với các tỉnh gần nhứt, nên tiện nghi thành phố khó đến xứ này được. Năm 1950 vẫn còn xài đèn dầu, đèn khí đá, ít ai mang guốc. Dân gốc Việt đàn ông một số còn bới tóc, mục tiêu cho đám anh đò trêu chọc: “Chị ơi! Chị! Hà tiện gì có đồng bạc”. Chợ cũng không có rạp hát, gánh Nam Hồng ngoài Bắc trôi giạt vào hát mấy đêm tuồng Thạch Sanh – Lý Thông (đào Kim Anh – Lệ Thủy, kép chánh mà không hát được vọng cổ). Gánh công lập với vở Tiếng khóc bên mồ hát nhằm mồng hai tết, xui tận mạng. Lâu lâu mới có đám cưới lớn có máy hát đĩa ASIA quay dây thiều, phải thay kim và mài kim. Dĩa Hoa rơi cửa Phật nghe tới thuộc lòng. Bấy giờ đã có vụ “ âm nhạc cải cách”, hát nghêu ngao bài Cô lái đò:
Chèo thuyền lại đây cô lái đò ơi, đường trường kịp sang buông mái chèo trôi, đưa tôi qua bến con sông xa vắng…
Hoặc  Cô bán mía, cùng điệu:
Mời thầy lại đây mua mía giùm em, lời thành thật rao xơi mía nầy xem…
Tôi còn nhớ điệu hát năm 1948: “Núi cao tới mây, ta cố trèo, đường ta đi quanh co chen lấn muôn cây…”. Ngày nay hỏi lại không ai nhớ là bản gì. Thỉnh thoảng tôi lép nhép riêng bài ca kháng chiến, học lóm:
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà chết chớ lui…
Tôi rất cẩn thận, hầu như im hơi lặng tiếng khi có mặt ông già tôi, lỡ miệng là no đòn. Tứ cố vô thân, bị ám ảnh xếp lùn thời Tây, rất sợ lính tráng và công an, sự ám ảnh đó hiện thành nếp trong lối sống, cách cư xử và lối dạy con. Những từ ngữ chánh trị, quốc sự như “thanh niên, đồn bót, Việt Minh, súng đạn…” không được nhắc tới. Là chủ tiệm sắt, ông vì quyền lợi, xin hai chữ bình an. Việc quyết định cho con theo hệ thống giáo dục Việt Nam cốt cho con không bị hiếp đáp. Mỗi lần có ai lạ ghé thăm tôi là ông không yên tâm, phập phồng lo âu.
Học trò thời đó mặc áo sơ-mi hay áo bà ba, quần xà-lỏn, ít đội nón, còn thiếu thốn. Chưa có viết nguyên tử (viết Bic), hầu hết dùng viết chì, lớp Tư lớp Ba dùng viết ngòi lá tre chấm bình mực tím, đứa nào có viết thơm “Stylo” là sang lắm rồi. Bọn lớp Năm mang theo bảng đá, phấn và miếng giẻ, cây chổi để cùng nhau quét.
Có lần, một sĩ quan Pháp vào lớp đố học trò Việt Nam “quinze” là số mấy? Trò Sủl đáp trúng được thưởng 5 đồng bạc (thời đó một gói bắp hầm một cắc). Lâu lâu được phát bánh Tây (bánh biscuit lạt). Lính Pháp mang đồ hộp dư  bán lại bày bán ngoài chợ, bọn tôi đã biết thịt hộp, fromage. Ông già tôi định giá biểu “sáng năm cắc, trưa năm cắc, chiều năm cắc”, tôi thường lấy thêm xài, ổng làm ngơ. Buổi sáng bọn học sinh tùy hoàn cảnh, lót lòng bằng khoai, trứng trăn luộc, trứng chim cò, hột sen nấu, củ co, bánh canh bột gạo, thông dụng nhứt là bánh tầm. Ngày nay, đúng ra từ năm 1960, các loại thú cầm tuyệt chủng rồi. Tiếc ngày thơ ấu, có khi được quấn con trăn quanh cổ đi chơi, có đứa cõng con khỉ, con lọ nồi trên vai, vớt lăng quăng cho cá xiêm ăn, đút chuối cho con chồn đèn, bắt cào cào nuôi con sáo; bây giờ toàn đồ chơi bằng nhựa vô hồn.
Chiến tranh, khí giới thô sơ, chưa khốc liệt như sau nầy. Sà-lan sắt chở Commamdo Maroc đổ bộ Bình Định, đầu kinh rộng tàu lồng cu xoay sở dễ dàng, ghe chài đậu san sát. Ghe chở nồi, xuồng trầu đậu nghẹt đầu kinh mỗi buổi sáng.
Thế hệ trước tôi, nay chừng 60 tuổi trở lên, biết đọc biết viết là ra mần ăn. Các bà già không biết chữ nằm võng bắt đứa cháu đọc thơ cho nghe những cuốn thơ giấy khổ A4 chừng 20 trang bằng chữ quốc ngữ như: Dương Ngọc, Thạch Sanh – Lý Thông, Chàng Nhái Kiễn Tiên… bán đầy ngoài chợ, đọc đi đọc lại có khi thuộc lòng. Nhớ lại hình bìa thơ Dương Ngọc là cảnh Thái Tử vác cuốc theo nàng Dương Ngọc ra đồng, bên dưới phụ đề: “Dương Ngọc - Thái Tử ra đồng. Đốn cây, nhổ cỏ, vun dòng trồng khoai” (hạnh phúc như vậy mà vua cha nỡ từ bỏ Thái Tử vì không muốn có nàng dâu sàng dã). Hình bìa thơ Thạch Sanh – Lý Thông: “Chằn tinh thấy thịt mừng lòng. Thạch Sanh bèn rút búa đồng cự đương” hay quá, hào hứng quá, nhứt là lúc Thạch Sanh ngồi tù, ôm cây đàn thần gảy lên giải nỗi oan kể lại từ đầu đến cuối; Công Chúa bị câm nghe bất giác nói lên được. Đoạn đàn tóm tắt trọn vẹn cuộc đời Thạch Sanh, từ:
Đờn kêu tích tịch tình tang
Nhờ ai chém đặng đầu chằn tinh miếu trung đến:
Đờn kêu ai bắn chim bay
Mũi tên dấu máu sa rày xuống hang.
Và than van:
Đờn kêu trách kẻ lòng tà 
Dĩ ơn báo oán mưu đồ hại ta…
 (lại lạc đề!)
Cho đến hết năm lớp Ba, học sinh chưa đông, phòng ốc còn đủ, nên học năm lớp mỗi tuần, thứ năm nghỉ.
Để duy trì kỷ luật, thầy dùng cây roi mây, củ mây cứng đánh trên đầu trên cổ học sinh riết cũng mệt. Cha mẹ còn đốc: “Thầy đánh nhiều, tôi cảm ơn, thương cho roi cho vọt”. Học trò lớn lên ai cũng khen nhờ thầy đánh mới có ngày nay. Ngày nay đi làm lơ xe đò, gánh nước mướn cũng nhớ ơn thầy. Cuối tuần rủi thầy “thua me”, thứ hai vào lớp, thầy dễ tức giận”gỡ bài cào” với đám học trò quỷ quái.  
Gần cuối năm lớp ba, nghe phong phanh mình sẽ ra tỉnh tiếp tục học. Khi mang khai sanh vào cho thầy làm giấy chuyển trường, bạn bè tha hồ chế giễu. Tôi hiểu lờ mờ, vì tất cả đều do ông già tôi quyết định. Ông đặt đóng cái ghế bố, mua cái mền vải, cái mùng và bốn cây tre làm cây giăng mùng.

LƯU NHƠN NGHĨA ( Tuoi Tre Online )

Phần 04: Như cánh chuồn chuồn

Tôi chen lấn ra khỏi khu đất tiếp tân Trung tâm Huấn luyện Quang Trung sau khi suốt buổi sáng tìm thằng em họ bị động viên để đưa tiền cho nó xài.
Con đường nhựa bị chảy dưới cơn nắng thiêu đốt cộng với hơi người nồng nực của đám đông đi thăm thân nhân. Tôi đi uể oải trong đám người, chợt chú ý đến một thiếu phụ đội nón vải lụp xụp, hai tay bồng hai đứa bé, xách thêm một cái giỏ, thằng bé thứ ba đeo cánh tay của mẹ nó. Bị lôi lếch thếch, đứa bé nắm tay mẹ nó như đu rễ cây đa.
Tôi phản ứng tự nhiên, tiện tay bồng đứa bé và nói:
- Chị để tôi bồng một đứa cho!
Thiếu phụ cụp đầu, thụ động mệt mỏi đến độ không buồn trả lời đồng ý hay phản đối. Tôi cõng đứa bé đi trước đến bến xe Lam, đặt đứa nhỏ trên xe, xách cái giỏ đề lên giùm thiếu phụ rồi quay đi về phía quán giải khát.
Thiếu phụ ấp úng “Cảm ơn Trung úy”, rồi chợt há hốc:
- A! Nghĩ hia!
Tôi ngạc nhiên không kém:
- Thái tiểu thư! A, a, Triệu thái thái (18).
Câu chuyện ngắn ngủi trao đổi, tôi biết Thục Linh thăm chồng bị bắt quân dịch. Gương mặt Thục Linh héo hắt xác xơ. Khách bộ hành chen lấn xô đẩy ba mẹ con Thục Linh vào trong xe nổ máy ầm ầm chạy khỏi bến. Thục Linh ôm ba con cúi đầu chào, tôi bất giác cúi chào lại, cả hai cúi chào duyên số hẩm hiu. Bấy giờ thấy nhẹ hẳn người đi, tôi đã chứng minh tôi vô tội, tiểu huynh không phải bạc hãnh danh nghe Thục Linh tiểu muội.
Người chồng Thục Linh đổi ra Trung, ông Thoại Ký vận động kéo anh ta về xứ làm lính kiểng, giúp việc buôn bán, ông tốn kém cũng bộn. Trên đe, dưới búa, anh Triệu phải trốn tránh trong nhà, gặp Quân cảnh, An ninh hay Cảnh sát là như gà thấy cáo. Ông Thoại Ký phải bao che, đãi đằng, biếu xén hậu hỉ. Ông mang cả một gánh nặng lâu dài, năm này sang năm khác.
Ông thân tôi bắt đầu thương ông Thoại Ký hơn, sau khi cả mấy tháng mất ăn mất ngủ, bẽ bàng vì tôi từ chối theo ông ra tỉnh coi mắt con ông chủ tiệm vải. Hoàn cảnh không còn cho phép hai ông chủ quan như trước, nên phải xích lại gần  nhau hơn, cùng chia xẻ gánh nặng tinh thần, than thở cho sự bất lực đối với con cái thời nay. Có lần, ông bắt gặp trong túi tiền của tôi, tấm ảnh cô thợ may tóc dài tặng. Ông tức lồng lộng, vấp ngạch cửa chúi nhủi đưa cho bà mẫu tôi xem. Bà mẫu tôi chưa kịp phản ứng, mãi tò mò ngắm nghía bức ảnh, bị ông nạt:
- Bà muốn nó dẫn đồ chằn rây về nhà làm tán gia bại sản hả? Mình nhà buôn bán không chứa thứ vẽ lông mày như hát bội.
Ngoài tiệm cà phê, hai ông cúi đầu nhịn nhục, hết mỉa mai nhau, vì cả hai đồng hội đồng thuyền, nỗi lòng biết tỏ cùng ai, mà có ai liên can gì để cảm thông? Ông Thoại Ký giọng buồn buồn, nói đủ cho ông thân tôi nghe:
- Hia coi đó, mỗi lần ông Trưởng chi Cảnh sát mới đổi lại, mình phải tốn một mớ, rồi ông Thiếu úy Quân cảnh, Trưởng ban Nhân dân Tự vệ… đủ thứ. Đãi người này, phải mời người khác, ăn ngập mặt mà cứ doạ đòi thêm. Nuôi thằng rể này có ngày tỏ tịa (19)! Đóng hụi chết, không biết chừng nào hết.
Ông lắc đầu, uống ngụm cà phê đen, nhìn ông thân tôi, nuốt cà phê như nuốt hận vào lòng:
- Phải mình là xin kê (20), tôi đâu có lo chuyện lính tráng cho thằng Dìn Nghĩ?
Nếu nghe câu này trước đó một năm, chắc ông thân tôi vồ lấy cơ hội tốt, hạ ông Thoại Ký cho sướng miệng. Nghĩ tới tôi, ông hầm hầm như sắp gây gỗ:
- Tui đâu có hơn gì hia? Hồi đó tại hia nổi chứng. Con Sóc Lếch làm dâu tôi phải rồi.
Ông hớp cà phê, nuốt không trôi, thở hổn hển:
- Mắc dịch thằng con tôi, lâu lâu nó về rút tiền đem nuôi con thợ may bà chằn. Tui chửi gì thì chửi, vợ tui, nó cũng đưa tiền.
Ngày được biệt phái về nhiệm sở cũ, tôi đi một mạch về quê, thấy nhớ quê quá, nhớ tiệm Phong Hưng hay tiệm Thoại Ký? Suốt ngày nhún nhảy trên xe đò, mệt lả, lại say xe, tôi vội vã vào kho hàng cởi vội bộ đồ nhà binh đẫm mồ hôi và đôi vớ hôi hám ném một góc, ngã lưng trên khoang dây chì mát lạnh.
Trong giấc ngủ trưa mê mệt, nghe thoang thoảng trong không gian trong vắt tiếng ru con thanh thanh bên nhà hàng xóm vang qua.
Cô họ tôi, đúng là cô ba bà sáu, nghe tôi mới về, ghé thăm, lay tôi thức dậy:
- Thức dậy đi, thức dậy nghe người ta chửi kìa.
Bên kia lầu, Thục Linh ru con, lời ru Việt Nam, tiếng ầu ơ vời vợi, hòa với tiếng kẽo kẹt theo võng đong đưa, an phận mà còn hờn trách vu vơ: 
À ơi! Mãn coi hạc tắm suối vàng
Cây cao vội ngả lấp đàng ngỡi nhơn
Ngỡi nhơn sao mỏng dánh như cánh chuồn chuồn
Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay…
LƯU NHƠN NGHĨA - (8 – 1988)
__________________________ 
(1): Chảo bể: Chảo bị bể không dùng nấu nướng được, người ta mua về vá các bộ phận cày bừa.
(2): Tiếng Hẹ: Thổ ngữ Hoa Nam, giống như thổ ngữ Triều Châu/Phúc Kiến.
(3): Chơi lật hình: Quyển sách tập đọc, có tranh có hình người, nhiều người hoặc ít người. Đứa nào lật trang có nhiều hình người nhất sẽ thắng.
(4): Nếu có bằng Certificat (Trung học) có thể được đi huấn luyện thành “cò” (cảnh sát trưởng) hoặc “đội” (quan một: thiếu uý).
(5): Đại để đây là những trò chơi trong ngày lễ Quốc Khánh Pháp (14-7):
- Nhảy bao: Đứng trong bao bố nhảy, ai đến mức trước sẽ thắng.
- Cạp chảo: Đồng tiền xu, cắc, gắn vào đít chảo, ngươì thi cạp tiền bị lọ nghẹ dính miệng, không được dùng tay.
- Đập nồi: Cái nồi đựng nước, treo giữa hai cây cột. Người thi bị bịt mắt quay mấy vòng, cầm cây nhắm hướng tìm nồi, đập bể nồi sẽ được thưởng.
(6) Đầu con cọp cười: Mặt người sừng sộ sắp sửa gây sự như cọp nhe răng.
(7): Xa hia xí tỉ: Anh ba em tư, tam huynh tứ đệ. Ý nói bạn bè ăn chơi như “bạn thịt chó” (cẩu nhục bằng hữu).
(8): Consigne: Bị phạt cấm túc sáng chủ nhật.
(9): Lão thức: Biết điều.
(10): Đầu chó nấu mãi cũng hả miệng nhe răng giống như mặt người nhe răng cười hoài.
(11): Xa câu lặt má: Cô ba bà sáu, tam cô lục bà. Chỉ mấy người nhiều chuyện hoặc bà làm mai.
(12): Sinh giờ thứ 11: Tục truyền dân Tiều chính cống sinh lúc 12 giờ. Ai sinh lúc 11 giờ không phải chính tông, xử xự khác.
(13): Lứ: nhữ, ngôi thứ hai.
(14): Tiền rửa đít: Tiền trả cho mẹ cô dâu, phải đúng số từ 444 đồng trở lên, tiền vô định miễn là tất cả con số đều là số 4.
(15): Quá: ngã, tôi.
(16): Hui ná: Cái giỏ tròn của người Hoa, dùng đựng quà biếu.
(17): Công nho: Tiền quỹ của làng xã.
(18): Tiểu thư: “Cô”, danh xưng người thiếu nữ. Thái thái: “Bà”, danh xưng người đã có chồng.
(19): Tỏ tịa: Phá sản.
(20): Xin kê: Thông gia.

LƯU NHƠN NGHĨA ( Tuoi Tre Online )

Phần 02: Như cánh chuồn chuồn

Chợ sáng vừa tan, ông quét chợ lui cui hốt rác bỏ lên xe đẩy ra đồng đổ. Trưa đứng bóng, chợ quận vắng người hơn.
Giờ nầy ông thân tôi bắt đầu dọn dẹp tháo những khoanh dây chì, bưng những thùng đinh chất gọn vô tiệm, chồng chất những bó mây cho gọn ghẽ, đẩy thùng lưỡi cày xuống bộ ván ngựa, xếp chồng chảo bể (1) vô góc hàng ba. Xong xuôi, ông lau tủ kiếng có những chai rượu con cọp, mấy chai nước xá xị, những hộp phấn thoa con nít và hộp thuốc tiêu mặn, soạn lại xấp giấy san đầm cho thứ tự.
Sáng dọn ra, trưa dọn vô, rồi quét xành xạch hai cái chõng trước hàng ba, ông thân tôi có khả năng làm công việc lủ khủ đó. Thế giới của ông là tiệm tạp hóa, ông nhớ từng chi tiết giá hàng lên xuống hàng ngày rành mạch.
Quanh chợ quận, các hiệu tiệm hay chành đều sống thỏa mái với nhau, mỗi cửa tiệm một loại giấy phép riêng, nên ít khi va chạm nghề nghiệp, trừ các tiệm cà phê, thớt thịt, chợ cá, tiệm thuốc Bắc phải cạnh tranh nên khó tránh khỏi sự xung đột ngầm. Người ngoài khó nhận ra nếu không lê lết tiệm nước, nào tiệm cà phê nầy pha bắp rang, thớt thịt kia bán thịt heo cũ, tiệm rượu nọ bán rượu không đủ chữ.
Đối diện tiệm ông thân tôi, là tiệm Thoại Ký. Ông chủ tiệm cũng làm việc cùng nhịp điệu với ông thân tôi, đồ đạc thuộc loại khác nên tình láng giềng chưa bị sứt mẻ. Ông Thoại Ký dọn những thùng bún tàu, tàu hủ ky, các loại đậu xanh đỏ trắng đen, gạo, tương chao…
Cơm trưa xong, ông Thoại Ký và ông thân tôi đều giữ đúng giờ ở tiệm cà phê cùng các chủ tiệm khác bàn luận hàng hóa giá cả thị trường, vừa đổ ly cà phê nóng ra dĩa thổi uống xùm xụp, chắp chắp miệng lấy khẩu hứng vấn đề sinh lợi. Trong khi các bà ở nhà lo giặt quần áo, lo nhà cửa con cái…
Hiệu Thoại Ký có con gái duy nhứt tên Sóc Lếnh (Thục Linh) lớn tháng hơn tôi, tóc ngắn, ưa nhảy cò cò quanh quẩn trước sân, hoặc thơ thẩn kéo cái ống chỉ quanh nhà, có khi nói tiếng Việt, có khi nói tiếng Hẹ (2) với bạn đồng lứa. Thục Linh là gái nên gia đình ít nuông chiều, tuy áo quần tươm tất lành lặn.
Tôi không ưa chơi gần nhà, trước nhà là con đường bên hông chợ chật hẹp, buổi sáng khó len qua lối đi, thường ẩm ướt vì rau cải trái cây đổ ngỗn ngang. Hơn nữa, nếu quanh quẩn gần nhà thế nào cũng bị ông thân tôi la rầy bắt về tắm, ngủ trưa. Bọn xóm tôi kéo ra sau đình, dưới bóng mát mấy cây me, có ông Tà bằng đá dựa gốc cây, ít đứa nào dám chơi ăn gian sợ thề thốt gặp giờ linh ông Tà bẻ cổ. Có đứa kéo diều chạy quanh đình, mệt thì buộc dây diều vào cây điệp đỏ bông, ngồi nhìn diều bay vẫy đuôi theo gió trên nền trời xanh mây trắng.
Chiều chiều, bữa cơm dọn ra trên chõng trước nhà, tôi ngồi quay lưng ra ngoài để khỏi thấy đôi mắt của đám chó vện đói ngồi chờ xương. Hai gia đình thường có chung khẩu vị, thường là canh dưa cải, canh măng le, mì xụa xào, tàu hủ chiên.
Bỗng một ngày, ông thân tôi lôi tôi ra tiệm hớt tóc, rồi may cho mấy bộ đồng phục. Ông ra tỉnh mua một số tập vở ô vuông, bút lông và cái giỏ mây vuông vắn. Tôi ưa đồ chơi hơn, nên lơ là những món quà vô vị.
Chuẩn bị cho con đi học, ông thân tôi sắp xếp như việc sinh lợi buôn bán. Đêm đó, sau khi thanh toán sổ sách, dẹp cái bàn toán lách cách vô tủ kéo, ông gọi tôi ra, vừa dặn dò vừa hăm dọa:
- Mầy nghe, tối ngày chơi bời lêu lổng, tối ngày hổng thấy mầy ở nhà, sáu tuổi rồi mà chưa biết chữ, mai mốt làm sao ra toa, làm sao sinh lợi, sổ sách không thông.
Lúc sau ông nhẹ nhàng khuyên nhủ:
- Ráng học, biết chữ để lo mấy cái xe hàng, biết đi Nam Vang bổ hàng, coi đồ đạc giá cả lên xuống, tập mần ăn với người ta, tao hổng có sống già lột da nuôi mầy đâu!
Sáng hôm ấy, mưa lành lạnh, ông thân tôi nghiêm trang lắc bàn toán xành xạch cầu bán đắt như thường lệ; tôi ngồi ăn chén cháo trắng với cà na muối, bên kia Thục Linh cũng nhai cà na muối húp cháo trắng.
Tôi mặc đồng phục, xách cái giỏ mây vuông, theo ông thân đi lên trường Tân Huê Học Hiệu. Ông thân tôi và ông Thoại Ký đi sánh đôi, cả hai đều che dù đen, mang guốc vuông lộp cộp, bùn đất văng dính đầy gót chân. Thục Linh khép nép dưới tàn dù đen, tim tôi đập theo tiếng guốc.
Đến trường, tôi lơ đãng nhìn thế giới chung quanh, những tấm tranh viết chữ thảo, bức ảnh Tôn Trung Sơn và Tưởng Giới Thạch treo trên tường, một người nghiêm trang, một người mỉm cười.
Thục Linh khóc ré lên khi ông Thoại Ký rời trường. Thời giờ trong lớp học qua lâu chình chịch, tôi vòng tay cúi xuống bàn ngủ lúc nào không nhớ. Ông thầy trẻ dùng roi gõ nhẹ trên vai, tôi tỉnh dậy bị cuốn theo tiếng đọc bài của học trò vang dội:
“Rễn, rễn, rễn” (Người, người, người)
“Wò xứ chung kwõ rễn” (Tôi là người Trung Quốc)
“Wò mễn tá chia, táo xứ chung kwõ rễn” (Chúng ta tất cả đều là người Trung Quốc)
Tôi và Thục Linh nhìn nhau cầu cứu, gần nhà, hai đứa biết mặt nhau, gần gũi nhau, đồng chép miệng vội vàng:
“Kwõ chì, Kwõ chì” (Quốc kỳ, quốc kỳ)
“Wò ái nì, wò chính nì” (Tôi thương anh, tôi trọng anh).
Đêm đêm, sau bữa cơm chiều, khi gọn đèn ống khói thắp lên, bên kia ông Thoại Ký gõ bàn toán, bên này ông thân tôi ghi chép sổ sách, ánh đèn vàng vọt len qua khe cửa ra ngoài, Thục Linh và tôi cùng đọc vang vang đêm vắng:
“Lãi lãi lãi” (Đến đây, đến đây)
“Lãi tủ shu” (Đến đọc sách)
“Tá chia lãi tủ shin shu” (Chúng ta cùng đọc sách mới)
Tiếng học bài hai đứa ấm cúng hai cửa tiệm, có khi Thục Linh đọc trước, tôi tiếp theo sau, khi hai đứa cùng đọc, âm thanh quyện vào nhau thành bản nhạc ngây thơ trầm trầm nhịp nhàng như mưa rơi trên mái ngói.
Ngày ngày đi học về, bọn tôi đi dọc theo con đường đất sau dãy phố Vĩnh Phong Chành. Thục Linh đi phía bên có dòng nước, tôi đi bên có hàng trứng cá, để ý tìm cây trứng cá nào trái chín nhiều, tay tôi thọc sâu trong túi, giữ chặt mấy viên đạn cu li.
Mấy tháng sau, quen nước quen cái, tôi dự cuộc chiến bằng nạng dàn thung, giữa học sinh trường Tiều và trường Phước Kiến, có mấy đứa lỗ đầu suýt đui mắt, tôi bị đuổi oan vì bọn lớn đầu xúi giục.
Ông thân tôi chấn tôi vào chùa Miên học tiếng Miên, đầu cạo trọc, để chòm tóc dài trên mỏ ác vắt bên tai, vừa nhìn tấm ảnh vua Norodom trên tường vừa lải nhải:
“Ko Ka Ket Kai”
Hoặc những câu Kinh phạn viết trên lá thốt nốt: “Namo tasa, bhagavato, Sama sam bhudda sa!”.
Chiều về, tôi quơ quào viết ngoằn ngoèo các mẫu tự Miên như mấy con trùn bò. Khác với tôi, Thục Linh nắn nót bằng viết lông trong ô vuông, nét chữ kỹ xảo, có hồn như vết chân chim.
Ông Thoại Ký ngứa ngáy khoe khoang xách qua cho ông thân tôi xem chữ “Qui” Thục Linh viết:
- À! Hon hên hia à, coi Sóc Lếnh tiểu nữ nhà tôi viết chữ “Qui” nè, giống hệt con rùa sống à!
Ông thân tôi đâu có gì khoe khoang hoặc hãnh diện, ông càng chán ngấy những tấm hình chằn tinh trong tập vở tôi, các trang sách lem nhem ghi số để chơi lật hình (3). Rồi hai biến cố làm ông thân tôi đổi hướng suy nghĩ.
==========================
Năm đó, Commandos Maroc đổ bộ, say rượu phá phách xóm làng dữ quá, ông Quận ra lệnh cấm bán rượu cho Maroc, nhưng nó vào tiệm mua không bán, nó phá tan hoang cửa tiệm. Ông thân tôi bị bắt buộc bán nên bị phạt nặng.
Sau nhà tôi, tiệm sách sạch sẽ của ông Trịnh tự nhiên dẹp, ông ta có bằng cấp Sơ học, nhờ biết tiếng Tây chạy được chân giáo viên nên sang hẳn người ra. Ông họ Trịnh mặc áo trắng quần tây, mang xăngđan đi dạy, bầy con dọn về phố, ở không ăn, sung sướng quá.
Đang lúc loạn lạc, ông thân giao tôi về bên ngoại vùng Mỹ Đức an toàn hơn, xa cái nạn “Cáp duồn”. Tôi lại học với ông thầy giáo Việt Nam đầu tiên, tên thầy giáo Lọ.
Yên giặc trở về, Thục Linh đã học đệ tam niên Tiểu học, tôi tò mò lắng nghe Thục Linh đọc bài đêm thanh:
“Wãn wãn chu chiu” (Quan quan thư cựu)
“Tớ hở chi chou” (Tại hà chi châu)
“Miễu thiễu sũ nũ” (Yểu điệu thục nữ)
“Kwan tzù hão chìu” (Quân tử hảo cầu)
Thục Linh đang đọc bài thơ trong Kinh thi: Hai con le le đang kêu oang oang tại cồn cát trên sông, người thục nữ yểu điệu, người quân tử thích cầu thân!
Tiếng đọc câu Kinh thi, thiên Quốc phong thật tao nhã, tôi lép nhép theo phụ họa:
“Xâm xi hành thái
Tả hữu lưu chi
Yểu điệu thục nữ
Ngộ mị cầu chi
Câu chi bất đắc
Ngộ mị tư bặc
Du tai du tai!”
Hứng chí, tôi đọc bài  ám đọc mới học với thầy giáo Lọ:
“Rừng một dãy, cây chen vạn gốc
Gốc cây rừng, một nóc nhà tranh
Trong nhà một ngọn đèn xanh
Ngọn đèn mờ tỏ bức tranh ba người
Con thi khóc, vợ lai miệng dỗ
Chồng lui cui đương rỗ đựng thanh
Thú vui mấy lúc thanh nhàn
Thoảng như câu hát cung đàn gió bay”.
Hai bài thơ, hai niềm vui ấm cùng tuổi thơ quyện vào nhau thắm thía còn văng vẳng đâu đây, thứ hạnh phúc đơn sơ như cái cười hể hả của tiều phu gánh củi bán chợ chiều, gặp ngư ông, rủ nhau nướng cá, cạn bầu rượu đục vui tao ngộ bên bờ suối sâu, hạnh phúc nầy đâu cần tìm đâu xa?
Hạnh phúc này tiêu tán khi Tây đổ bộ ngoài kinh, cái áo sơmi trắng của thầy giáo Trịnh làm ông thân tôi đổi ý, lệch lạc cuộc đời sau nầy.
Ông bàn với bà mẫu tôi: “Thằng nầy thả lỏng không được đâu, để của cho nó phá hết cũng vậy, bắt nó học tiếng Tây, chừng nào đậu certificat đi cours cò,  cours đội (4) cho đỡ cực thân nó”.
Sau quyết định, ông ném tôi vào lớp học Pháp. đêm đêm Thục Linh vẫn thủy chung đọc bài trường Tiều:
“Sứ Sù Sữ Sù” (Thạc thử thạc thử)
“Wu Sứ wò mew” (Vô thực ngã miêu)
“Sán xuễ kwan nù” (Tam tuế quán nhữ)
“Mõ wò khỡn lào” (Mạc ngã khẳng lao)
(Con chuột lớn ơi, mầy đừng ăn mạ tao, đã bao năm tao đối phó với mầy, mầy không biết công lao đó).
Bên nầy, tôi mơ ước ngồi bên Thục Linh đọc tiếp bài Kinh thi: 
“Thệ tương khứ nhữ” (Quyết định bỏ mầy đi)
“Thích bỉ lạc giao” (Đến nơi an vui)
“Lạc giao, lạc giao” (An vui, an vui)
“Thùy chi vĩnh hào” (Mầy than gào ai?)
Tôi bị đuổi khỏi vùng an vui, tôi gào con chuột đừng ăn mạ non mơn mởn như tóc tơ Thục Linh ngồi đọc bài bên ngọn đèn khuya, hơn là đọc những bài récitation vô hồn của Tây:
Maintenant, je vais à l’école
J’apprend chaque jour ma lecon
Le sac qui pend sur mon épaule
Dit, que je suis un grand garcon.
Ngày nay tôi đi học, tôi học bài vở mỗi ngày. Bài vở làm tôi luống cuống, xa cội xa nguồn. Cái túi đeo trên vai tôi là một gánh nặng rằng tôi đã lớn. Lớn để làm gì, để xa dần thứ hạnh phúc ngây thơ, có nước sông gạo chợ, có người bạn gái xinh xinh sớm chiều cùng nhau đọc bài ám đọc.
Hai tiệm buôn vẫn đối diện sừng sững, hai đứa bé bên trong bắt đầu đi ngược hướng nhau – vì hoàn cảnh lúc nào không biết. Nhứt là những lần lễ lạc, lễ Tây có nhảy bao, cạp chảo, đập nồi (5), chúng tôi đứng nghiêm chào lá cờ tam sắc xanh trắng đỏ ngạo nghễ bay, rống cổ hát không biết nhục:
Étudiants! Du sol l’appel tenace
Présent et fort, relentit dans l’espace
Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor
Atravers les monts, du sud jusqu’au Nord
Bọn tôi phục vụ tổ quốc ai?
“Servir la chère patrie?”
Tôi thèm thuồng đứng chào lá cờ “Thanh thiên bạch nhựt mãn địa hồng” hát chung với Thục Linh “Sán Mìn chủ jí” (Tam dân chủ nghĩa).
Ai làm hai chúng tôi đổi giọng đổi lời đổi tiếng thay tâm? Tiếng súng và tiếng giầy đinh commando từ Âu Châu làm tắt ngọn đèn dầu ấm cúng, làm uất nghẹn âm thanh đọc đêm, làm nồi cháo trắng với cà na muối thay bằng bánh mì thịt.
Hàng me dọc theo chợ bị đốn sạch, rừng cao su dưới chân núi Cấm thưa dần.
Ông thân tôi nuôi hy vọng cours cò, cours đội, thầy thông, thầy ký, nhưng tôi ngồi lì lại lớp ít nhứt hai năm, ngủ ngày suốt buổi học, chung tiền cho bạn bè lo bài vở giùm. Việc làm ăn trong lớp trôi chảy, đến khi thầy khám phá tôi sáu năm học mà chưa làm nổi bài toán cộng đơn giản. Trận đòn tơi tả của trường cũng như ở nhà ít làm tôi đau hơn cái nhục bị con nhỏ Xà Phớt xách tai làm gương. Tôi trốn học cả tuần, đi về ngã sau tránh gặp Thục Linh.
Ông thân tôi đánh bàn toán tìm câu trả lời cho tương lai tôi, chuyển tôi ra tỉnh học, vì trường quận chỉ có tới lớp Sơ đẳng (cours élémentaire).
Đêm đó, ông nói với bà mẫu tôi, vừa nói vừa gõ bàn toán lách cách sau mỗi câu nói thiệt hơn:
- Cho nó đi học xa cho yên, ở nhà lấy tiền nuôi thiên hạ để cọpdê cũng vô đó. Ở tỉnh mình đóng tiền cơm tháng, tiền xài bao nhiêu là bao nhiêu, rẻ hơn cho nó ở nhà.
Chưa thỏa mãn, ông quay sang tôi mặt vừa nhăn vừa trừng như đầu con cọp cười (6):
- Còn mầy nữa, ra tỉnh phải học cho nên, học cho sướng thân mầy, ai cần mầy nuôi lại. Nước trên mái nhà chảy xuống, nước đâu có chảy ngược lên. Làm sao thì làm coi cho được, đừng tùng tam tụ ngũ, xa hia xí tỉ (7) à nghe!
Lời ông nói như nước đổ lá môn, tôi ngồi trơ trơ, nhớ và lo cho bầy cá lia thia giấu trên nóc nhà, ai hớt lăng quăng cho cá ăn, ai lo kiếm cào cào cho con sáo, con gà tre. Nhứt là từ nay hết được nghe tiếng học bài Thục Linh đêm thanh rồi.
Thục Linh may mắn hơn tôi, sống trọn vẹn với tuổi thơ êm ái bên cạnh cha mẹ, hàng xóm quen thuộc. Đứa bé non nớt chưa chuẩn bị tinh thần bị ném bất ngờ vào thế giới thành thị. Chưa quen với kỷ luật trường tỉnh, roi vọt trường tỉnh nặng nề hơn trường xưa, bạn chửi “Ba Tàu”, mặc cảm làm chai lì tình cảm. Đêm đêm nằm trằn trọc lo sợ, mơ được nghe tiếng Thục Linh đọc bài, nước mắt ướt đầm ghế bố. Bài vở càng vô vị hơn, nào analyse gramaticale, logique, nào l’adjectif démonstratif, nào subjonctif passé du verbe apercevoir. Ông thầy nghiêm khắc, tôi mất cơ hội ngủ ngày trong lớp.
Vào Trung học, kỷ luật càng khắt khe, ít về quê, nhứt là vào những buổi sáng chủ nhựt bị consigné (8), phải vô trường ngồi viết hai trăm chữ “silence” (im lặng), “discipline” (kỷ luật). Dần dần nếp sống quê trong tiệm tạp hóa thiếu đèn điện, thiếu nước máy… xa dần, tôi ngày càng gần nếp sống thị thành.
Thục Linh học xong tiểu học Hoa ngữ, ở nhà tiếp giúp bán buôn. Mỗi lần về, đi ngang tiệm, tôi luôn luôn lễ phép chào ông bà Thoại Ký, được khen “thằng Phong Hưng con thật là lão thức” (9). Thục Linh càng lớn càng duyên dáng dù không phấn son. Hai đứa gặp nhau đều lúng túng, ngượng nghịu mỗi lần mang quà biếu nhau. Bà Thoại Ký thân thiết với bà mẫu tôi hơn, và hai ông ngồi uống cà phê với nhau lâu hơn.
Năm tôi học Đệ Tứ, đầu năm, Thục Linh mặc áo xẩm, cánh tay trắng ngần, môi hồng tự nhiên, má chín như trái đào, nét hao hao giống nữ tài tử Lâm Đại, qua nhà tôi ấp úng:
- Bề úm, tân niên phát tài.
Bà mẫu tôi bắt tôi qua nhà Thục Linh mừng trả lễ. Thục Linh trốn sau nhà, mãi đến khi tôi về mới dám ra ngoài.
Thỉnh thoảng ông thân tôi và bà mẫu tôi xì xầm bằng tiếng Tiều, nhìn tôi vừa nghiêm trọng, cười chúm chím hài lòng. Tôi thoáng nghe tiếng còn tiếng mất, “tiền chợ, tiền rửa đít, mấy tạ bánh đặt tiệm nào?”.
Bà mẫu tôi lo âu nhắc:
- Ông nhắc chừng nó, coi chừng nó mê nhan sắc gái ở chợ.
Ông thân tôi rất tự tin:
- Hừ, nó không nghe lời, tôi vặn họng nó, đừng tưởng văn minh rồi qua mặt tôi. Bà chờ nó đậu Brevet đi cours quan một hay làm thầy ký ở quận rồi tính tới cũng kịp.
Bà mẫu tôi gạt ngang:
- Thôi về xứ mình làm thầy giáo, tiếp nhà buôn bán, hai tiệm nhập lại nghiêng chợ nầy.
Tôi vô tình không tìm hiểu, mỗi năm về quê có mấy lần ngắn ngủi, rồi ra đi. Việc buôn bán phát đạt làm Thục Linh vất vả, nhanh nhẹn hơn. Tôi may mắn mỗi lần về, bị say xe ói mửa, xong nằm ngủ vùi, gia đình nội ngoại cưng chiều, “tội nghiệp thằng nhỏ, ép quá cũng không nên, học quá thành ra vậy”.
Hai gia đình đang âm ỉ chờ đợi cái gì đó, Thục Linh lánh mặt tôi cố ý.
Năm đó, tôi khăn gói dự thi, hàng xóm xôn xao như tin quan trọng chờ tôi xênh xang áo gấm, “chờ uống rượu hai tiệm a!”.
Sau khi nghe kết quả, bị rớt không được vào vấn đáp, tôi buồn bực ra về. Vừa bước xuống bến xe, hai gia đình lẫn lộn đứng chờ, mặt mày ai nấy hớn hở. Thấy mặt tôi buồn thiu, ông thân tôi xuống sắc, chạy theo hỏi:
- Sao, thế nào?
Tôi trả lời gọn lỏn:
- Có kết quả rồi, rớt.
Rồi đi xăm xăm một mạch về nhà. Đêm đó, bầu không khí buồn tẻ cho hai tiệm buôn. Ông Thoại Ký và ông thân tôi ngồi uống trà, yên lặng. Chợt ông thân tôi hỏi thật vô duyên không phải chỗ:
 - Bây giờ làm sao?
Tôi quạu, cộc lốc:
- Chờ kỳ thi thứ hai.
Rồi bước vùn vụt ra ngoài. Thục Linh đứng trước cửa khép hờ, mắt lo âu, nhìn theo tôi im lìm.
Năm đó, tôi rớt luôn kỳ hai. Bà mẫu tôi an ủi suông:
- Năm tới chắc đậu phải không?
Chẳng những năm tới, mà liên tiếp ba năm tôi rớt luôn sáu keo. Cuộc khủng hoảng ở gia đình tôi lan ra tới hàng xóm. Bà Kim Seng vốn ganh tị, vì đám con bà ở nhà làm ăn, nghe tôi thi rớt, làm bộ vô tình ghé nhà tôi hỏi cho được, rồi vừa đi hai tay quơ sai sải, vừa cười hể hả nghe ứa gan.
Một số bà con tôi bắt đầu bàn ra tán vào, xem bói, xem tướng, xem địa lý, đất chôn ông nội tôi phát phú chứ không phát quan. Một số tám tàng như già Chóng bô bô cái miệng:
- Hia đưa tôi mười lăm ngàn, tôi lấy cái Diplôme cho nó liền cho hia coi.
Tôi bỏ lên Sài Gòn học cho có, gia đình tôi tấn thối lưỡng nan, lở khóc lở cười với xóm làng.
Lâu dần, tôi quên mất hình ảnh cô bạn gái láng giềng, chưa lần nào đối thoại trực tiếp, họa chăng vài lần bằng đôi mắt buồn tênh. Ý định chờ tôi đi cours cò, nhập hai tiệm thành một làm nghiêng chợ tan dần như vệt mây mù trên bầu trời xanh.
Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí. Trước tết, vô công rỗi việc, tôi ngồi trước cửa nhà thơ thẩn, chợt có thiếu nữ mặc đồng phục xanh, đeo dây biểu chương vàng xinh đẹp đi ngang nhìn tôi. Thấy quen quen, sau đó mới biết đồng học đồng cấp, chung trường ngày xưa, tuy khác lớp.
Cô đổi về quê tôi làm việc. Cô nhìn bạn cũ, nên tự nhiên ghé thăm thường xuyên nhà tôi, xứ lạ đâu có ai quen. Bọn tôi vui vẻ nhắc chuyện xưa, chuyện mấy ông giáo khó tính, chuyện những bài đại số, chuyện ông Hiệu trưởng mặc veston trắng, đội nón cối trắng, ngồi xe lôi, mặt hắc ám như sắp gây gổ, chuyện mấy bài Lý hóa kỳ thi Trung học. Chuyện các cha xe đò lợi dụng thí sinh đổ về tỉnh thi, bắt chẹt lên giá, rồi ngày có kết quả đậu dài dài chờ rước đám thí sinh thi hỏng về, thêm nạn bị cha mẹ mắng nhiếc như Bùi Ông nhún trề Bùi Kiệm. Bọn tôi vô tình có cơ hội xả hơi bực bội, lâu nay biết tâm sự cùng ai. Thủy, cô bạn, cũng tự nhiên vui tánh, ăn nói sang sảng lớn tiếng. Mặt Thủy luôn cười, bên kia bà Thoại Ký la đám người làm:
- Cái đầu chó nấu không chín! (10)
Cũng may Thủy không hiểu câu ngạn ngữ nầy.
Ông thân bà mẫu tôi điên đầu vì chuyện Thủy ghé thăm tôi thường xuyên, ông cằn nhằn:
- Biết vậy cho nó lên Nam Vang học trường Tàu cho khỏi văn minh, tối ngày trai gái. Nói chuyện như chó nhai giẻ rách, quen cái thứ “xa câu lặt má” (11) đó, đem về nhà cho xui xẻo.
Thúc phụ tôi, dốt ưa nói chữ, lửa cháy thêm dầu, muốn dạy con cháu:
- “Học hành ba chữ lem nhem, thấy gái mà thèm, bỏ chữ trôi sông”. Bởi vậy nó có học hành làm vương làm tướng gì được, tui đã nói rồi mà!
Bà cô họ tôi được dịp khoe tài ngồi lê đôi mách:
- “Văn minh thái quá văn minh tệ. Hủ lậu vừa vừa hủ lậu hay!”.
Ông Thoại Ký trách ông thân tôi ăn nói “có đầu không có đuôi”, “sinh giờ thứ 11” (12), “sinh con nuôi không dạy là lỗi cha”:
- Học chữ Tàu thì yên rồi. Ham làm ông cò, bây giờ buôn bán cũng không biết, làm cò cũng không xong, lỡ thầy lỡ thợ lỡ cu li.
Ông thân tôi bực quá:
- Đẻ con bò con trâu, chớ đâu đẻ cái sừng. Mình sanh con ai có sanh lòng, mà hia nói vậy.
Rồi ông quạu với bà mẫu:
- Lứ (13), có nghe không? Con trai quý của lứ đó.
Bà Thoại Ký trách bà mẫu tôi:
- Hồi đó lứ nói sao? Mấy tạ bánh, tiền rửa đít (14), tiền chợ quá (15) không lấy mà. Quá đâu có ham giàu, tiền như đất cát, nhơn nghĩa mới là vàng! Sao lứ không dạy nó?
 ối suy tưởng của hai gia đình xa lạ đối với tôi quá, khác hẳn hoặc không liên hệ điều gì tôi học ở trường, dù những thùng đinh, những tấm lưới cá, những khoanh dây chì, cưa, bào, đục, đã góp phần nuôi nấng tôi nên vóc nên hình.
Chỉ vì vô tình, Thủy ghé nhà chơi, chuyện nhỏ xé to, làng xóm than van, mặt Thục Linh rầu rầu như cỏ úa, tóc dài hơn, mím miệng giả vờ bận rộn khi tôi đi qua.

LƯU NHƠN NGHĨA ( Tuoi Tre Online )